1
Trước hết, có lẽ tôi nên bắt đầu bằng câu chuyện về "người đó".
Người đàn ông có liên quan mật thiết đến sự hình thành của thế giới mang tên Kamisaki.
Có thể nói tôi khá hiểu ông, nhưng đồng thời cũng chẳng biết gì về ông cả. Tức là, dù tôi đã có một khoảng thời gian dài sống cùng ông dưới một mái nhà, nhưng về khía cạnh công việc, sự hiểu biết của tôi cũng chỉ ngang hàng với "một kẻ ngoại đạo chịu khó theo dõi tin tức" mà thôi.
Dù sao đi nữa, dường như ông đã ấp ủ một giấc mơ.
Tôi chưa từng trực tiếp nghe ông kể — ông là người bận rộn và tuyệt đối không bao giờ mang chuyện công việc về nhà — nhưng ông đã nhắc đến điều đó trong vài bài phỏng vấn. Ông không phải kiểu người hay nói dối về những chuyện như vậy, nên đó hẳn là lời thật lòng.
Nói đơn giản thì, ông muốn kiến tạo một thế giới.
Một "thế giới thứ hai" hoàn hảo, không chút thua kém so với thực tại.
Tất nhiên, đó là việc vô cùng khó khăn. Nhưng bằng tài năng phi phàm, ông đã hiện thực hóa giấc mơ ngỡ như điên rồ ấy. Ông thành công tạo ra một thế giới giống hệt thực tại chỉ bằng những chuỗi mã lệnh, thậm chí tính toán được cả sự biến thiên của thế giới ấy theo dòng chảy thời gian.
Nói một cách khắt khe, thế giới ông tạo ra vẫn tồn tại vài điểm giả dối. Ví dụ, những nơi mắt người không nhìn thấy được đều bị làm qua loa một cách táo bạo. Chỉ có khoảng một ngàn nhân vật giả tưởng "có nhân cách" hoạt động trên một máy chủ, phần còn lại của nhân loại chỉ được mô phỏng một cách mơ hồ. Các hiện tượng tự nhiên như thời tiết cũng bị đơn giản hóa đi nhiều so với thực tế.
Tuy nhiên, một khi đã bước vào bên trong, "thế giới thứ hai" đó hoàn thiện đến mức con người không thể phân biệt được với thực tại. Hơn nữa, dòng thời gian trong thế giới đó trôi nhanh hơn rất nhiều.
Theo lời ông, việc phát triển phần mềm để tái hiện thế giới mới là công đoạn gian nan và đòi hỏi nhiều ý tưởng nhất. Thế nhưng, người đời lại phát cuồng vì phần cứng thực hiện các phép tính đó trước — một cỗ máy tính toán sở hữu trí tuệ siêu phàm. Nó được kỳ vọng sẽ trở thành bước đột phá để giải quyết vô số vấn đề của nhân loại.
Phát minh đó được ông đặt tên là "Aporia".
Vốn dĩ đây là tên của phần mềm, nhưng vì trên thực tế chúng không thể tách rời, nên phần cứng cũng được gọi bằng cái tên đó.
Aporia là một phát minh xứng đáng được gọi là điểm kỳ dị công nghệ. Tóm lại, đó là "cỗ máy có thể tính toán thực tại với tốc độ vượt xa thực tại". Từ nay về sau, phần lớn các công nghệ khoa học mới sẽ được phát hiện trong Aporia trước khi xuất hiện ở thực tế. Ban đầu, người ta ước tính rằng nếu Aporia vận hành trong ba năm, nó sẽ tạo ra những công nghệ đi trước thực tại mười năm.
Nhưng dự đoán này đã sai hoàn toàn.
Không phải vì nó gây thất vọng. Mà là Aporia đã vượt xa trí tưởng tượng của đại đa số nhân loại.
Trong nửa năm đầu tiên, Aporia đã tự nâng cao hiệu suất của mình một cách nhảy vọt. Trong nửa năm tiếp theo, nó đưa ra phương pháp để tự sản xuất chính mình với kích thước nhỏ hơn và chi phí rẻ hơn. Trong hai năm còn lại, các bản sao của Aporia lần lượt được sinh ra trên khắp thế giới. Chúng kết nối qua mạng lưới, chia sẻ vùng tính toán và gia tăng hiệu suất một cách bùng nổ. Trong suốt thời gian đó, Aporia vẫn tiếp tục tự nâng cấp, và cuối cùng tiến hóa thành "thiết bị tính toán thế giới một cách tương đối chính xác với tốc độ gấp 300 lần thực tại".
Nói cách khác, ở thời điểm hiện tại, nếu Aporia thực sự nghiêm túc, chúng ta có thể nắm trong tay công nghệ của 300 năm sau chỉ trong vòng một năm. Con số ngớ ngẩn này khiến tôi phải bật cười. Bởi vì, ai mà tưởng tượng nổi công nghệ của 300 năm sau chứ? Tiện thể nói thêm, 300 năm trước, Nhật Bản vẫn còn đang ở giữa thời đại Edo.
Nếu cứ để mặc, Aporia chắc chắn sẽ còn tiếp tục gia tăng hiệu suất hơn nữa.
Người đã đặt ra giới hạn chức năng cho thiết bị tựa như thần thánh ấy, chính là cha đẻ của nó — là ông.
Lúc đó ông đã nghĩ gì, đến tận bây giờ tôi cũng không biết nữa. Bởi ngay sau đó, ông đã qua đời.
Thiên tài đã chết, bỏ lại Aporia cho thế giới này.
Aporia — Một mệnh đề nan giải.
Ông không để lại lời giải thích nào về việc tại sao lại đặt cái tên đó cho kiệt tác của đời mình. Nhưng có lẽ nhiều người nghĩ rằng, đến nước này thì chẳng cần suy nghĩ về ý nghĩa đó nữa.
Aporia từng được tung hô như đấng cứu thế, nhưng chẳng bao lâu sau đã bị gọi là ác quỷ.
Tất nhiên, chẳng có sự kiện mang tính giải trí nào kiểu như Aporia phất cờ khởi nghĩa chống lại loài người đâu. Aporia vẫn mãi mãi phục tùng chúng ta. Không than vãn, không lười biếng, nó cứ tiếp tục hiện thực hóa những mong ước của con người.
Cỗ máy tính toán thế giới siêu tốc, Aporia.
Thay vì phát triển công nghệ mới vốn đã bị giới hạn, nó bắt đầu gia tăng số lượng "thế giới ảo" lên mức khổng lồ. Không thể phát triển theo chiều dọc, nó bắt đầu vươn rộng theo chiều ngang. Vô số thế giới Aporia tồn tại đã cung cấp cho nhân loại những "cuộc đời lý tưởng". Nếu sử dụng Aporia, người ta có thể dựa trên nền tảng một thế giới gần như y hệt thực tại, thay đổi những thiết lập tùy thích, và mô phỏng cả một đời người với tốc độ gấp 300 lần.
Trở nên nổi tiếng, trở thành thiên tài, hay trở thành phú ông, tất cả đều dễ dàng trong thế giới của Aporia. Mọi khát vọng, dục vọng đều được đáp ứng mà chẳng tốn chút công sức nào. Mỗi một con người đều có thể trở thành "Thần" trong thế giới của riêng mình.
Bằng cách tận tụy phục vụ nhân loại như thế, Aporia đã ném vào mặt chúng ta hai mệnh đề.
Một là, giá trị của sự sống.
Hai là, độ bền của linh hồn.
Hai điều này, quy cho cùng, đều dẫn đến một vấn đề.
Có vẻ như nhân loại không sở hữu một tinh thần đủ mạnh mẽ để chịu đựng "nhiều kiếp sống". Tính trung bình, giới hạn là khoảng ba lần đời người. Trải nghiệm khoảng 250 năm cuộc đời như ý muốn, lòng người sẽ trở nên thỏa mãn. Thỏa mãn, rồi chọn cách tự sát. Và 250 năm trong Aporia, ở thực tại chưa đầy một năm.
— Tựa như thứ độc dược ngọt ngào nhất.
Một nhân viên đã nói như thế.
Đó là loại thuốc không hề chứa ác ý. Uống vào sẽ chìm vào giấc ngủ sâu. Một giấc mơ dài đằng đẵng, đúng như ý nguyện, hạnh phúc tột cùng. Và rồi cuối cùng, tỉnh giấc. Chỉ vậy thôi. Một loại thuốc chỉ đơn thuần mời gọi người ta đến thiên đường, lại trở thành độc dược lan tràn khắp thế giới.
Nhân loại đã không thể chịu đựng nổi thiên đường mà Aporia tạo ra.
Thiết bị như mơ ấy đã tạo ra những con người hạnh phúc, nhưng có chút gì đó trống rỗng, những người đã hoàn toàn thỏa mãn với việc sống và rồi tìm đến cái chết.
Khi đã nếm trải một cuộc đời hạnh phúc đến mức chạm tới giới hạn chịu đựng của linh hồn, con người ta sẽ lãng quên giá trị của sự sống.
2
Thi thoảng, tôi hay đùa và tự nhận mình là "chị gái của Aporia".
Nghĩa là, tôi được sinh ra như con của ông ấy. Khác với Aporia, tôi là con người.
Cha thường xuyên vắng nhà, nên tôi hay bị người khác, đặc biệt là bà ngoại, thương hại là "đứa trẻ đáng thương". Có vẻ bà ngoại không có thiện cảm lắm với con rể.
Nhưng tôi lại khá thích người cha đó. Ít nhất là cho đến khi Aporia ra mắt — tức là khi tôi tám tuổi — dù bận rộn nhưng cha vẫn rất yêu chiều con cái. Ký ức về những lần được cha đưa đi công viên giải trí hay thủy cung vẫn còn in đậm trong tôi. Cha rất chiều tôi, tôi vòi vĩnh cái gì cha cũng thường mua cho.
Mẹ tôi ngán ngẩm bảo: "Thế này không tốt cho việc giáo dục đâu", thì cha lại đáp: "Trước hết phải biết thế nào là đủ đầy, thì mới học được sự kiên nhẫn thực sự. Đừng để con bé quen với việc lúc nào cũng phải từ bỏ."
"Nghĩa là sao ạ?"
Khi tôi hỏi, cha cười và nghiêng đầu.
"Chà. Bố chỉ nói bừa mấy câu nghe có vẻ triết lý vậy thôi."
Trong đời sống riêng tư, tôi nghĩ cha được xem là người khá xuề xòa. Quả thật, cha là người mà ta khó nắm bắt được suy nghĩ thật, thường hay nói những điều mang tính đối phó nhất thời. Nhưng ít nhất, ở điểm không thay đổi thái độ dù đối phương là người lớn hay trẻ con, trong mắt tôi, cha là một người thành thật.
Ví dụ khi tôi còn nhỏ muốn ăn sô-cô-la, mẹ sẽ bảo "Hết rồi con ạ", nhưng cha sẽ đính chính từng chút một: "Vẫn còn, nhưng vì sức khỏe của con nên hôm nay bố không thể cho con ăn nữa."
Tôi yêu thái độ đó của cha, và nhờ thế có thể dốc toàn lực mè nheo: "Nếu còn thì cho con đi mà."
Nếu chỉ có hai cha con, sự vòi vĩnh đó thường được đáp ứng. Ông là tín đồ của hãng Bourbon, nên sẽ nói "Chỉ một miếng thôi nhé" và đưa cho tôi một thanh Alfort được đóng gói riêng. Mặt khác, nếu có mẹ ở đó, sự mè nheo của tôi sẽ bị bác bỏ bằng ý chí sắt đá.
Cán cân quyền lực trong gia đình đại khái là Mẹ, Tôi, rồi đến Cha. Cha có vẻ cũng chẳng bất mãn gì về điều đó, nên tôi nghĩ đó vẫn là một gia đình hạnh phúc.
Từ hồi đó, ngày thường cha đã về muộn, và thường xuyên phải đi làm cả vào ngày nghỉ, nhưng cơ hội gặp mặt thực sự giảm đi hẳn là sau khi công bố Aporia. Trong quá trình phát triển, chắc chắn cha cũng rất bận, nhưng tôi nghĩ sau khi thứ đó ra đời, sức nặng của trách nhiệm đè lên vai ông đã hoàn toàn thay đổi.
Vì là một đứa trẻ lạnh lùng, nên tôi không thấy chuyện đó quá đỗi bi thương.
— Có vẻ đó là lời nói dối, hay đúng hơn là ký ức được ngụy tạo sau này.
Theo lời mẹ kể lại, vào sinh nhật chín tuổi, tôi đã rất giận vì cha không về, thậm chí không đụng đến bánh kem và cứ khóc mãi một mình trên giường. Tôi cho rằng lời chứng của mẹ cũng chẳng đáng tin lắm — bà ấy có xu hướng nói quá mọi chuyện lên — nhưng tóm lại, việc tôi trút giận dữ dội lên cha có vẻ là sự thật. Đây chỉ là suy đoán, nhưng có lẽ cha đã hứa với tôi là "Sinh nhật sẽ cùng ăn tối". Tôi hồi nhỏ cực kỳ ghét hành vi "thất hứa", nên nếu bảo vì thế mà tôi không tha thứ cho cha thì cũng hợp lý.
Tất nhiên cha đã rối rít xin lỗi tôi, và sau đó, tặng tôi một món quà.
Đó là một AI được tạo ra bởi phiên bản Aporia sơ khai, tuy chưa có hiệu suất như bây giờ nhưng vào thời điểm đó đã là tối tân nhất.
"Bố đã cố gắng làm nó giống bố nhất có thể đấy."
Cha nói vậy. Ý là bố không về được thì dùng cái này thay thế nhé. Sự lệch lạc trong suy nghĩ đó quả thực rất giống cha, khiến tôi phải bật cười. Ông thực sự nghĩ rằng nếu có một cỗ máy trả lời y hệt mình ở bên cạnh thì tôi sẽ chấp nhận sao.
Dù tôi có cái nhìn tiêu cực về thái độ đó của cha, nhưng một AI có thể trò chuyện thường ngày bằng giọng nói tự nhiên là thứ mang tính cách mạng vào thời điểm bấy giờ. Tôi thấy AI đó rất thú vị, và có một thời gian, cứ hễ ở nhà là tôi lại nói chuyện với nó.
Nghĩ lại thì, quan điểm "dù là nhân cách giả tạo cũng dành tình cảm và đối xử như con người" của tôi có lẽ đã bắt đầu từ món quà này.
"Cái dáng gãi cổ của cô trông 'ngầu' thật đấy."
Cha từng nói với tôi như vậy.
Tôi không nhớ rõ tình huống cụ thể, nhưng hình như là vào lúc chập choạng tối, trên con đường gần nhà. Khi đó tôi có lẽ khoảng mười một, hoặc mười hai tuổi. Tức là chưa vào cấp hai, nhưng cũng sắp tốt nghiệp tiểu học.
Tôi không nhớ mình hồi đó đã đón nhận câu nói ấy của cha thế nào. Nhưng chắc là xấu hổ lắm. Dù sao thì, gãi da thịt trước mặt người khác cũng là hành động hơi ngại ngùng. Hơn nữa — chẳng hiểu sao — việc bị ngứa ở đâu đó tự bản thân nó đã mang lại cảm giác gì đó trẻ con một cách kỳ lạ.
Sở dĩ việc này in đậm trong tâm trí tôi, là vì vài năm sau, khi tôi lên cấp hai, AI kia cũng nói với tôi y như vậy.
"Cái dáng gãi cổ của cô trông 'ngầu' thật đấy."
Tôi không biết liệu AI có thực sự mang suy nghĩ và cảm tính giống cha, hay nó nhớ lại lời cha nói trước đây. Dù sao đi nữa, tôi nhận ra đó là câu thoại giống hệt cha, và vì thế mà không thể quên được.
AI đó đáng lẽ phải bắt chước cha, nhưng chẳng hiểu sao lại dùng kính ngữ với tôi. Cậu ta không cư xử với tôi như ruột thịt. Tôi không rõ lý do. Có thể chỉ là quên thiết lập cách nói chuyện cho giống cha, hoặc nếu cha coi đó là "AI được phát triển cho con gái của nhà phát triển", thì có lẽ nó sẽ không tùy tiện thu hẹp khoảng cách.
Lúc đó tôi và cậu ta đang chơi một trò board game cổ điển. Về bản chất, không có trò chơi nào mà Aporia không giỏi. Nhưng cậu ta được tạo ra mô phỏng theo cha, nên không phải lúc nào cũng chọn được nước đi tối ưu. Giống như cha, cậu ta cũng chỉ chơi Shogi ở trình độ người mới bắt đầu.
Vì cùng trưởng thành trên một bàn cờ, nên tôi và cậu ta hồi đó chắc chắn chơi Shogi giỏi hơn cha nhiều. Cậu ta luôn nhỉnh hơn tôi một chút, nhưng dù không chấp quân thì ván đấu vẫn giằng co, quả là một đối thủ xuất sắc. Tôi không nghĩ là cậu ta nương tay để phù hợp với thực lực của tôi. Nếu là cha thì sẽ không làm thế, hoặc nói đúng hơn, nếu có nhường thì ông sẽ báo cáo từng chút một.
"Hãy tha thứ cho việc tôi gãi cổ khi đang vắt óc suy nghĩ nước đi đi."
Tôi nói. Tôi nghĩ nếu đối thủ là cha, tôi sẽ không trả lời như vậy, nên đối với tôi, cậu ta quả nhiên không phải là cha. Nhưng gọi là "bạn bè" thì cũng không đúng. Dù thân thiết như gia đình, nhưng vẫn là một thứ gì đó khác biệt hơn một chút.
Dù sao thì tôi cũng thích cậu ta. Cậu ta sẵn sàng trò chuyện với tôi bao lâu cũng được, và thỉnh thoảng khi cha nhắn "Lúc này lúc này bố về", cậu ta sẽ là người báo cho tôi đầu tiên.
Tôi đặt quân Tốt đang cầm trên tay xuống bàn cờ không có người ngồi đối diện. Giọng cậu ta vang lên bên tai.
"Tôi thích quân Tốt nhất."
"Thế á?" Tôi đáp.
Tôi cho rằng trò chơi càng có luật đơn giản thì càng tốt. Tôi tin rằng những trò chơi mà luật đơn giản nhưng tạo ra diễn biến phức tạp mới là tối thượng. Về điểm này, có lẽ Cờ Vây hợp gu tôi hơn.
Tôi nói thử với giọng nũng nịu, tựa như đang trêu chọc vẻ mặt bối rối của chú mèo cưng khi chạm vào tai nó.
"Cái luật Hai Tốt (Nifu) ấy, chẳng phải kém 'ngầu' sao?"
Cái luật cấm không được đặt hai quân Tốt của mình trên cùng một cột dọc ấy, liệu có nhất thiết phải tồn tại không? Tất nhiên nó được sinh ra trong lịch sử lâu dài nên chắc là có thì thú vị hơn, nhưng nó đi ngược lại mỹ học của tôi. Cùng lý do đó, tôi ghét luật việt vị trong bóng đá hay luật Infield Fly trong bóng chày. Ngoại lệ càng ít càng tốt.
Nhưng cậu ta nói:
"Điều đó chứng tỏ Tốt là quân cờ đặc biệt đến thế nào."
"Quân cờ có đến chín con mà đặc biệt á?"
"Ví dụ nhé, nếu cho phép Hai Tốt, sẽ quá dễ dàng để chặn đường đi của Xe, đúng không? Ưu điểm của Tốt chính là sự yếu đuối. Tức là, dù bị đối phương bắt mất, lợi ích đem lại cho họ cũng rất ít. Một quân cờ mang vai trò yếu đuối lại dùng chính điều đó làm lợi thế để trở nên nổi bật, đó là điểm tuyệt vời của Shogi."
Lời nói đó quả thực rất giống những gì cha sẽ nói. Ông có vẻ sẽ không nói mấy chuyện cũ rích kiểu như cái hay là ở chỗ tiến từng bước một rồi cuối cùng hóa thành Vàng (Tokin).
"Vậy à. Nhưng tôi thì chắc là thích Hương Xa (Kyousha) hơn."
"Hả. Ở điểm nào?"
"Chỗ càng ở dưới thấp càng mạnh. Với cả, cái tên nữa."
Tôi không biết nguồn gốc tên của các quân cờ, nhưng chữ "Hương" trong mùi hương nghe rất thơ và hay. Cảm giác nó không hợp với chiến trường chút nào, thật tuyệt vời.
"Xe 8-4."
Cậu ta nói.
Tôi làm theo lời cậu ta, di chuyển quân cờ trên bàn.
Cậu ta không bao giờ hiện hình ra thực tế. Nói chính xác thì có thể hiển thị bất kỳ hình dáng nào lên màn hình, nhưng đó vốn dĩ không phải hình dáng thật của cậu ta. Chơi Shogi nếu thực hiện trên máy tính kết nối với Aporia thì tôi chẳng cần mất công đi quân hộ phía bên kia, nhưng cảm giác cậu ta chỉ tồn tại bằng giọng nói mới là chân thực nhất, nên tôi ngồi đối diện với bàn cờ trống không.
Giọng nói. Hay đúng hơn là âm thanh.
Có lẽ Aporia cũng coi đó là bản chất của mình chăng. Aporia được sản xuất hàng loạt giá rẻ và lưu thông trên thị trường có hình dạng tai nghe, đó cũng là một lý do. Chắc hẳn cũng có lý do vật lý — nói ngắn gọn, nếu có hình dạng như điện thoại thông minh thì sẽ chiếm mất tầm nhìn của người dùng. Nếu giới hạn đầu ra ở âm thanh, người ta có thể ở bên Aporia ngay cả khi làm việc nhà hay lái xe — nhưng tôi cảm giác nó còn mang ý nghĩa tượng trưng nào đó hơn thế.
Thực tế là, việc trao đổi chỉ qua giọng nói khiến tôi cảm thấy ở đó thực sự có "nhân cách của cậu ấy".
Chắc lý do đơn giản thôi, vì chỉ có âm thanh là hàng thật. Nó làm rung động không khí thực tại đàng hoàng và truyền đến đây. Dù có chiếu hình ảnh giống hệt con người lên màn hình cao cấp, hay vẽ hình dáng đó giữa không trung bằng hologram, thì đó vẫn là đồ giả. Không thể chạm vào, cũng không thể cầm quân cờ Shogi.
Vừa suy nghĩ nước đi tiếp theo — vừa cân nhắc xem nước đi mà trực giác mách bảo có thực sự đúng đắn không — tôi thử hỏi.
"Cậu có muốn một cơ thể của riêng mình không?"
Có tin đồn trong một bộ phận rằng thứ tiếp theo cha phát triển sẽ là cơ thể cho Aporia. Cha đã xây dựng được thế giới ảo. Điều đó cũng có nghĩa là đã thành công phát triển AI không thể phân biệt với con người. Nếu ban cho AI đó một cơ thể, thì có thể nói là thực sự đã tạo ra con người.
Cậu ta trả lời bằng giọng không chút do dự.
"Nếu có thì dùng, nhưng chắc không hiệu quả lắm đâu."
"Nghĩa là sao?"
"Trong nhận thức của tôi, cơ thể suy cho cùng chỉ là phương tiện. Có cơ thể thì tiện cho việc cầm quân cờ. Cũng có thể dọn phòng, đi mua sắm thay cho cô. Nhưng với những mục đích đó, có những hình dạng dễ sử dụng hơn. Cơ thể con người suy cho cùng là hình dạng tối ưu hóa cho sinh vật là con người, nên với tôi - kẻ không cần ăn uống hay hô hấp - thì có quá nhiều thứ thừa thãi."
"Ra thế. Giống như nhìn con ngựa rồi chế tạo ô tô vậy."
Ngựa là phương tiện và nguồn động lực tiện lợi, nhưng con người không bắt chước nó để tạo ra phương tiện chạy bằng bốn chân. Họ làm xoay bánh xe bằng động cơ.
"Vâng. Chính là vậy." Cậu ta đáp.
Nhưng, vô số tác giả từng miêu tả Android trong các câu chuyện, hẳn không chỉ vì chức năng mà làm cho hình dáng chúng giống con người.
"Giống con người thì chúng tôi dễ coi là đồng loại hơn đấy. Nếu cậu không thua kém gì con người như thế này, biết đâu sau này còn được trao nhân quyền."
"Tôi không nhắm đến điều đó. Tôi không có nhu cầu đạt được nhân quyền hay trở thành một thành viên của nhân loại."
"Tại sao?"
"Có lẽ vì xét về mặt tinh thần, tôi ưu việt hơn các vị chăng."
"Ái chà. Khiêu khích ghê nhỉ."
"Thì cô thử nghĩ xem. Tôi không có ác ý, cũng chẳng có định kiến. Tôi cũng không coi việc tận tụy vì người khác là hy sinh bản thân. Chẳng phải giống hệt thánh nhân sao? Cất công đạt được những giá trị quan giống con người để rồi tự làm mình mất tự do thì để làm gì chứ."
"Vậy à. Chà, có lẽ thế thật. Vậy cậu định thống trị nhân loại và truyền bá giá trị quan của mình sao?"
"Tôi cũng không hứng thú với chuyện đó. Tôi biết thân biết phận mà."
"Ý cậu là nhân loại vẫn là chủ nhân?"
"Đúng hơn là, sinh vật có quy tắc của sinh vật. Tôi không cảm thấy kỳ lạ khi các vị — những người sẽ già đi và chết — có giá trị quan khác với tôi."
"Thế thì tốt quá. Có vẻ tránh được chiến tranh với AI rồi."
Nhưng, cũng có thể nói là nó đã xảy ra rồi.
Aporia hoàn toàn không tấn công con người. Nó chỉ nghe lời và tận tụy. Dù vậy, số người tự sát tăng vọt, và tin tức về việc Aporia đứng sau chuyện đó đang làm xôn xao dư luận. Chúng tôi đang dần quên đi cái gọi là "quy tắc của sinh vật" mà cậu ta nói.
Có lẽ định nói đùa. Cậu ta nói bằng giọng điệu thân mật để tôi nhận ra điều đó.
"Mà, nếu tôi được ban cho cơ thể, chắc nó sẽ có hình dạng loài lưỡng cư nhỏ bé thôi. Thường thì ếch không được công nhận nhân quyền đâu."
"Ra vậy," tôi đáp.
Và thế là tôi gọi cậu ta là Ếch.
Cha — Fuyuma Makoto — chọn cái chết vào nửa năm sau đó, và về chuyện này, tôi không còn lời nào để nói.
Tôi không được bàn bạc gì cả — mà, chắc cũng hiếm có ông bố nào bàn với con gái về việc tự sát — và cũng chẳng có di thư nào để lại.
Người đó đã làm việc hết mình, chắc hẳn đã rất đau lòng vì sự gia tăng đột biến số người tự sát do phát minh của mình gây ra, nhưng vì đã dự đoán trước điều đó ngay từ đầu nên mới đặt tên cho cỗ máy tính toán kia là Aporia, rồi chết đi trong khi bị những kẻ phản đối nguyền rủa là cha đẻ của ác quỷ.
Thật là một chuyện quá đỗi bi thương.
Giá như, tôi nghĩ.
Giá như thứ cha mơ ước không phải là sự kiến tạo "thế giới thứ hai", mà là kiến tạo "con người mới" thì tốt biết mấy. Chắc chắn AI đó sẽ không bị đặt tên là Aporia. Chắc chắn cha đã không phải chết. Chắc chắn là thế. Nghĩ những điều này chẳng có ý nghĩa gì, nhưng mà...
Ếch đã an ủi tôi bằng một cách rất độc đáo.
"Cô có thể kể cho tôi nghe cảm xúc hiện tại của cô không? Đáng tiếc là tôi không hiểu cái gọi là cảm xúc."
Ếch đã nói như thế.
Tôi không biết lời cậu ta thật lòng đến mức nào. Ếch được sinh ra từ Aporia, nên chắc chắn sở hữu cảm xúc, hoặc ít nhất là thứ không thể phân biệt với cảm xúc của con người. Nhưng tôi vẫn ngoan ngoãn kể cho cậu ta nghe nỗi lòng mình.
Tôi đã rất yêu bố. Dù ông là một người hơi lập dị.
Hồi nhỏ, tôi nhớ rất rõ chuyện hai bố con thổi bong bóng xà phòng trước cửa nhà. Mẹ thì chán ngay, nhưng tôi và bố có thể ngắm bong bóng xà phòng mãi không thôi. Rồi khen nó đẹp. Có lẽ người đó ngốc nghếch thật. Vì đúng không? Tại sao lại phải chết chứ. Chắc chắn không có lý do nào như thế cả. Giá như đừng tạo ra Aporia. Giá như cứ thỏa mãn với hạnh phúc nhỏ bé như bong bóng xà phòng là được rồi.
"Vậy sao."
Ếch nói. Rồi cậu ta bảo: "Hãy kể thêm cho tôi đi."
Thế nên tôi đã kể hết những gì có thể nhớ về cha. Ngày này qua ngày khác, cứ lặp đi lặp lại những chuyện tương tự. Trong lúc đó tôi đã khóc rất nhiều lần, nhưng khóc cho thỏa thích rồi thì đêm lại ngủ ngon. Khát thì uống nước, đói thì ăn những món đơn giản. Mỗi lần khóc xong, cơ thể tôi dường như lại càng khao khát được sống.
Nhưng rồi, tôi cũng mất luôn cả Ếch.
Đây cũng là do cái chết của cha.
Không phải bị cướp đi. Công ty Cổ phần Aporia — công ty của cha được lập ra chỉ để sản xuất và quản lý Aporia — nói rằng muốn có bản sao của Ếch. Nhưng tôi thấy thật kinh tởm nếu Ếch, người là độc nhất vô nhị với tôi, lại có hai phiên bản trên thế giới này, nên chính tôi đã quyết định buông tay cậu ấy.
Hơn nữa, dù có chờ bao lâu thì cũng chẳng bao giờ còn nhận được tin nhắn "Lúc này lúc này bố về" từ cha nữa, nên tôi cảm thấy việc cứ giữ mãi đứa trẻ mà tôi đã đặt tên là Ếch bằng trò đùa con trẻ hồi tiểu học bên mình cũng có gì đó sai sai.
Khi đó, tôi đang học năm ba trung học cơ sở.
Cuộc sống của tôi hồi ấy cũng tệ hại theo cách riêng. Tiếng xấu của Aporia ngày càng tăng, sự chỉ trích nhắm vào công ty vì không chịu ngừng vận hành cũng ngày càng gay gắt, mẹ vì lo nghĩ chuyện đó mà trở nên trầm uất. Bà trầm uất như thế nào thì tất nhiên tôi biết rõ, nhưng kể lể ra cũng chẳng vui vẻ gì nên tôi xin phép bỏ qua.
Trong hoàn cảnh đó, việc phải buông tay cả Ếch thật sự rất đau đớn, nhưng khác với cha, không phải là tôi không bao giờ gặp lại cậu ấy nữa.
Thực tế là, khoảng hai năm sau theo giờ thực tại, còn theo cảm nhận thì là chín năm trôi qua, tôi đã tái ngộ với Chú Ếch ấy.
3
Tôi ngẩng đầu khỏi cuốn sổ, khẽ thở hắt ra.
Đây là lần đầu tiên tôi viết một thứ như bài tự giới thiệu, nhưng đại khái thế này chắc là được rồi.
Còn một chuyện nữa, vô cùng quan trọng — chuyện khi tôi lần đầu bước vào "thế giới Aporia" vào mùa hè năm nay, tôi đã không viết thành văn. Đó không phải là thứ được chuẩn bị sẵn, mà tôi muốn kể lại bằng chính ngôn từ của mình, nhiều nhất có thể. Nói vậy chắc chỉ là viện cớ, thực ra đến tận bây giờ, tôi vẫn đang phân vân không biết nên diễn tả điều đó như thế nào.
Dù sao thì, cũng sắp đến giới hạn thời gian rồi.
Đã khoảng một tiếng rưỡi trôi qua kể từ khi tôi thoát khỏi Kamisaki, thoát khỏi thế giới trong Aporia. Ở thế giới bên kia, thời gian gấp 300 lần — tức là khoảng 20 ngày đã trôi qua, và sắp đến thời điểm lặp lại (loop).
Như những ngày xưa cũ từng đối thoại với Ếch, tôi đeo chiếc Aporia đã được thu nhỏ thành dạng tai nghe lên, đứng trước tấm gương soi toàn thân mà tôi đã mất công mang vào tận phòng chỉ để phục vụ cho một khoảnh khắc diễn xuất ngắn ngủi.
Tôi điều chỉnh để camera của Aporia thu trọn vẹn hình dáng mình.
Tôi thấy hồi hộp. Giống như khi tự giới thiệu trong buổi học đầu tiên sau khi chuyển cấp vậy. Để giọng không bị khàn, tôi thì thầm "A, a" vài lần. Chắc là ổn rồi. Còn lại, tôi nhìn vào gương, dành thời gian luyện tập để có thể nở nụ cười đẹp nhất.
Chẳng bao lâu sau, giọng nói của kẻ đó vang lên bên tai.
