Đêm hôm sau.
Bố của Sumika, người nói một câu nghe rất "Shōwa" kiểu như, “Đây không phải chuyện để nói qua điện thoại,” đã trở về nhà của gia đình Sumireno.
Chú ấy nói rằng mình đang mắc nợ, nhưng chiếc xe chú ấy đi lại là một mẫu xe nội địa cao cấp. Ngồi ghế khách, tôi nhìn cảnh vật lướt qua khi chúng tôi lái xe một lúc, cuối cùng dẫn đến một đèo núi.
Theo chú ấy, khi người lớn cần trò chuyện bí mật, họ thường làm điều đó tại một nhà hàng sang trọng, một phòng karaoke, hoặc trong ô tô.
Tôi chưa bao giờ lái xe nên không biết. Nhưng tôi kinh ngạc khi thấy chú ấy có thể nói chuyện dễ dàng như vậy trong khi vẫn phải lái xe trên con đường núi thiếu ánh sáng vào ban đêm.
Sau khoảng 20 phút trò chuyện phiếm, chú ấy đỗ xe vào lề đường sau khi đã vượt qua hai ngọn núi.
“Đi thẳng vào vấn đề, ta không tìm thấy bố cậu—Nitta Kazumasa.”
“Cháu hiểu.”
Lời nói thoát ra với một giọng điệu phẳng lặng đến mức ngay cả tôi cũng ngạc nhiên.
Trong xe tối om. Ánh đèn pha của những chiếc xe ngược chiều thỉnh thoảng lóe lên gây chói mắt.
“Xin lỗi vì đã làm cậu hy vọng. Ta sẽ lo học phí cho cậu, nên cậu nhất định phải vào đại học. Giờ ta làm ở công ty cũng khá ổn nên đủ khả năng lo được khoản đó. Cậu cứ yên tâm.”
Chú ấy vừa nói vừa liếc nhìn tôi.
“Cậu nên đi học đại học. Ta đã bỏ học nên đã bị coi thường rất nhiều. Chính vì thế mà ngay cả khi túng quẫn, ta vẫn cứ mua xe và vest đắt tiền. Ta biết, đó chỉ là một lòng tự trọng vô ích.”
Chú ấy cười như đang tự chế giễu bản thân.
Nhưng lòng tôi vẫn lạnh lùng.
“Chuyện gì đã xảy ra với bố cháu?”
“Ta nói rồi mà—”
“Chú biết điều gì đó nhưng đang giấu, phải không?”
Nghe vậy, chú ấy im lặng.
“Chú là người từng tự trách mình về sự biến mất của bố cháu và đã tìm kiếm cháu phải không? Một người như vậy sẽ không dừng tìm kiếm lại chỉ sau có một tháng, rồi bảo một học sinh trung học từ bỏ bố mình chỉ vì chú trả học phí cho cậu ấy.”
Chú ấy dựa vào vô lăng và thở dài thườn thượt.
“Nghĩ đến việc cậu đã phải dành cả đời để đọc từng lời nói và biểu cảm của người lớn như thế… khiến ta muốn khóc đấy.”
Quan sát giọng nói run rẩy của chú ấy, tôi biết—đây là một người tốt.
Chú ấy đang cố gắng chịu trách nhiệm cho con trai của người đàn ông đã phản bội mình.
Tôi cảm thấy tội lỗi. Cho dù tôi có cố tỏ ra là một người tốt bụng cỡ nào đi chăng nữa, tôi vẫn luôn không biết phải phản ứng thế nào khi ai đó thể hiện cảm xúc chân thật với mình.
Chú ấy sụt sịt rồi nói tiếp.
“Ta đã đến thành phố ở Thụy Sĩ nơi Kazumasa từng ở, nhưng ta thực sự không tìm thấy gã đó. Tuy nhiên, ta có nghe nói về một người đàn ông châu Á vô danh.”
“Vô danh?”
“Đúng vậy. Một ngày nọ, ông ta xuất hiện trong thị trấn, bắt đầu làm việc tại một quán cà phê để kiếm sống. Ông ta dùng tên giả, không ai biết ông ta đến từ đâu, nhưng rõ ràng là ông ta pha cà phê đặc biệt ngon.”
Bố tôi đã yêu thích cà phê đến mức tự mình dạy tôi cách pha.
“Nhưng 5 năm trước, ông ta lâm bệnh. Và cứ thế… ông ta qua đời.”
“Thế còn thi thể?”
“Hỏa táng là điều bình thường ở Thụy Sĩ. Sau đó, ông ta được chôn cất tại một nghĩa trang thành phố—về cơ bản là nơi mà chúng ta gọi là mộ vô chủ.”
“Cháu hiểu rồi…”
Chú đặt tay lên vai tôi.
“Nếu cậu muốn thăm mộ, ta sẽ đưa cậu đi.”
“Không cần đâu. Chỉ tổ tốn tiền thôi ạ.”
“Seiichirou, nghe này… Ta biết điều này khó khăn, nhưng Kazumasa từng là một người nghiêm túc. Có lẽ sau khi công ty thất bại, gã đó đã cố gắng kiếm tiền bằng chính đôi tay mình. Thụy Sĩ là một đất nước đắt đỏ, nhưng là một nơi tốt cho việc di cư.”
“Nhưng rồi tất cả số tiền ông ta kiếm được đã đi đâu?”
“Ở hầu hết các quốc gia, nếu không có người thừa kế thì tài sản sẽ thuộc về nhà nước. Nhưng đã nhiều năm rồi, và vì ông ấy đã được hỏa táng, nên việc chứng minh mối quan hệ của cháu gần như là không thể. Đòi lại số tiền đó là điều bất khả thi.”
Chú ấy rụt tay lại.
Tôi ngả lưng vào ghế và nhìn chằm chằm lên trần xe. Ở trong xe, bạn thậm chí không thể nhìn thấy bầu trời—cảm giác thật ngột ngạt.
“Ah, thật đáng tiếc. Vậy là cuối cùng vẫn không có tiền rồi. Ông bố của cháu không bao giờ ngừng làm cháu thất vọng nhỉ.”
“Seiichirou, ta sẽ lo học phí cho cậu—”
Tôi lớn tiếng ngắt lời chú ấy.
“Ngay cả khi cháu có thể nhận được tiền từ bố, cháu cũng chưa bao giờ có kế hoạch dùng nó để đi học đại học.”
“Cậu nói sao?”
“Nếu cháu có thể trả nợ—hoặc nếu được phép—cháu muốn dùng số tiền đó làm vốn cho Sumire. Cháu đã nghĩ đến việc phát triển một thực đơn cà phê mới và tự hỏi liệu chúng ta có thể lắp đặt một máy rang cà phê nhỏ ở phía sau quán không.”
“Cậu đã nghĩ đến những chuyện như vậy sao!?”
Chú ấy thở dài và lắc đầu. Cử chỉ đó như muốn nói, Ta không thể hiểu nổi bọn trẻ ngày nay.
“Dù sao đi nữa, cứ đi học đại học đi. Cậu không cần phải kiềm chế với ta đâu.”
“Cháu sẽ đi. Nhưng cháu sẽ dựa vào học bổng hoặc các chương trình hỗ trợ cho người không có phụ huynh. Nếu không được, cháu sẽ tự đi làm và tiết kiệm.”
Một khoảng im lặng ngắn ngủi. Chú ấy có vẻ hơi ngạc nhiên.
“Có chuyện gì đã làm cậu thay đổi ý định à?”
Chỉ một người hiện lên trong đầu tôi.
“Sumireno Sumika-san từng nói với cháu điều này: Sumire có thể biến mất bất cứ lúc nào, nên cậu hãy đi học đại học đi.”"
“Sumika đã nói điều đó sao?”
“Có lẽ cậu ấy chỉ nói như một cách diễn đạt thôi. Cháu muốn cống hiến hết mình cho Sumire. Nhưng điều đó không có nghĩa Sumire là tất cả đối với cháu. Cháu nghĩ cậu ấy không muốn cháu trở thành kiểu người sẽ cảm thấy trống rỗng nếu Sumire biến mất.”
Chú ấy xoa mũi.
“Sumika cũng đang suy nghĩ thấu đáo đấy chứ. Nếu viễn cảnh của Sumire không được khả quan, thì điều đó có lẽ là tốt nhất.”
“Ý chú là viễn cảnh của Sumire không được khả quan là sao—”
Tôi quay sang bố của Sumika, khó chịu vì cách diễn đạt đó, nhưng lại bắt gặp ánh mắt chú ấy đang trừng trừng nhìn tôi.
“Vậy, hai đứa đang hẹn hò à?!”
“Chúng cháu không.”
“Tốt,” chú ấy nói rồi lùi lại.
“Seiichirou, đôi khi cậu ích kỷ một chút cũng được đấy, cậu biết không hả.”
Tôi lắc đầu.
“Cháu đã quá ích kỷ rồi.”
Tôi thực sự đã rất ích kỷ: với Sumika, với chú, với chị Touno và với bạn bè nữa.
“Seiichirou…”
Nhưng chú ấy không bỏ cuộc.
Phải. Trực giác người tốt bụng trung bình của tôi mách bảo chú ấy sẽ không bỏ cuộc.
“Có lẽ cháu nên nói với mẹ cháu trước. Chú có thể lái xe đưa cháu đến ngôi mộ ở Kamakura vào lúc nào đó được không?”
“Tất nhiên rồi. Ta sẽ làm bất cứ điều gì cậu cần.”
Chú ấy cười gượng gạo.
Và với điều đó, cuộc trò chuyện kết thúc. Thông tin đã được truyền đạt, và không còn gì để nói thêm về bố tôi nữa. Tôi có cảm giác mình có thể sẽ không bao giờ nói về ông ta với chú ấy nữa.
Chúng tôi trở về nhà trong thời gian ngắn hơn lúc đi.
Bước ra khỏi xe, tôi có thể nghe thấy tiếng côn trùng đêm kêu—hình như là một con kubikirigisu, một loại dế mùa xuân. Một cô nàng học sinh danh dự hiểu biết nào đó, người từng nói với tôi điều đó, giờ đang đợi ở cửa trước.
Khi mắt chúng tôi chạm nhau, Sumika nở một nụ cười nhỏ.
“Cảm ơn chú vì ngày hôm nay.”
Tôi gọi chú ấy qua cửa sổ xe. “Cảm ơn chú.” Chú ấy đáp lại đơn giản, “Ừ.”
Khi tôi bước về phía ngôi nhà nơi Sumika đang đợi—
“…Khốn kiếp thật, cái tên khốn đó…”
Tôi mơ hồ nghe thấy chú ấy lầm bầm. Không phải về tôi. Mà là về người khác.
◇
Vài ngày tiếp theo, tôi cảm thấy mình như một quả pháo xịt.
Mùa xuân đã nhen nhóm một tia lửa trong tôi nhờ Haruhara và Shirosuga, nhưng cứ như thể ai đó đã dập tắt nó—làm cho thuốc súng của tôi bị ẩm và trở nên vô dụng.
Trong phần lớn cuộc đời tôi, bố tôi luôn là một thứ bùa xui xẻo như vậy.
Bố của Sumika gợi ý rằng có lẽ bố tôi đã đến làm việc ở một nơi có chi phí sinh hoạt cao.
Có lẽ điều đó là sự thật.
Có lẽ ông ta thực sự muốn trả nợ.
Tôi của ngày trước sẽ phủ nhận điều đó ngay lập tức. Nhưng giờ đây, tôi không còn chắc chắn nữa.
Không phải vì tôi tin vào con người ông ta.
Chỉ là tôi đã nhận ra—một số người chỉ đơn thuần là bất lực khi đối diện với cuộc sống.
Cốc cốc.
Một tiếng gõ nhẹ nhàng vào cửa.
Tôi ngồi dậy từ vị trí đang nằm trên giường và mở cửa. Tiếng gõ rất khẽ, nên tôi đã biết là ai. Đúng như dự đoán, đó là Sumika.
Cô ấy đang mặc đồng phục của Sumire.
Ngày hôm đó là thứ Bảy. Sắp đến giờ làm việc, nhưng chưa đến lúc mở cửa.
“Chào buổi sáng, Seiichirou-kun.”
“Chào buổi sáng, Sumika-san. Có chuyện gì vậy?”
“Ư-Ừm…”
Sumika rõ ràng là đang bối rối. Tôi đợi cô ấy nói.
Sau một lúc im lặng ngắn ngủi, cô ấy ngước nhìn tôi và thận trọng nói:
“Tớ có nghe bố nói… về Nitta-san. Tớ đã hỏi chuyện bố về việc đó.”
“Tớ hiểu…”
Một phần trong tôi đã không muốn bất cứ ai biết. Nhưng tôi chắc chắn chú ấy cũng không muốn nói về chuyện đó. Và tôi cũng nghi ngờ liệu Sumika thực sự muốn biết hay không.
Tuy nhiên, đó là điều cần phải nói ra, và là điều cần phải được biết đến.
Nitta Kazumasa là một sự hiện diện như vậy trong cuộc đời chúng tôi.
“Cậu…đang không ổn, phải không?”
“Mời vào.”
Tôi mở cửa rộng hơn để cô ấy bước vào.
Sumika bước vào phòng. Tôi chỉ vào chiếc ghế, và cô ấy ngồi xuống với sự cẩn thận lịch thiệp. Tôi thì thả mình xuống giường không chút do dự.
“Tớ không biết phải nói gì… Tất cả những gì tớ có thể gửi đến là lời chia buồn.”
“Cậu là nhân viên văn phòng à?”
“Trời ạ, Seiichirou-kun…”
Khi tôi bật cười, Sumika tỏ vẻ không biết nên tức giận hay không.
“Chà, phải… Ngay cả tớ cũng không biết phải làm gì. Tớ đã xây dựng tất cả động lực này, nhưng giờ thì…”
“Có lẽ vậy. Nhưng bây giờ, tớ chỉ cảm thấy… thờ ơ, chắc thế? Chắc chắn tớ từng nghĩ những điều như ‘ông ta thà chết đi còn hơn,’ nhưng khi hóa ra ông ta thực sự đã chết mà tớ không hề hay biết, đó không phải là sự nhẹ nhõm hay nỗi buồn—chỉ đơn thuần là… bối rối. Đây có phải là cái gọi là sự trống rỗng không nhỉ?”
“Cậu vẫn chưa thể xử lý cảm xúc của mình được. Cậu nên nghỉ ngơi ở Sumire một thời gian.”
“Tớ ổn. Tớ muốn tiếp tục làm việc ở Sumire.”
Tôi nhìn lên trần nhà, rồi quay sang cửa sổ.
“Căn phòng này… là phòng ông ta từng ở khi sống ở Sumire, phải không?”
“Đúng vậy. Xin lỗi. Tớ lẽ ra nên cân nhắc hơn mới phải.”
“Không sao. Lần đầu tiên khi biết tin này, tớ đã ghét nó. Nhưng bây giờ… tớ không bận tâm lắm. Đó là một cảm giác kỳ lạ. Nghĩ rằng ông ta cũng từng nhìn ra cùng một khung cảnh như này—thật khó mà diễn tả bằng lời.”
Bên ngoài cửa sổ là một khu dân cư điển hình. Một vài cây anh đào đã chỉ còn lại lá, mặc dù chỉ một thời gian ngắn trước đây chúng vẫn còn đầy sắc hồng rực với những cánh hoa.
Ông ấy có nhìn chằm chằm ra cửa sổ này khi cảm thấy buồn không?
Tôi tự cười thầm.
“Dù ông ta đang nghĩ gì đi nữa… nghiêm túc mà nói, loại người nào lại bỏ rơi vợ và con mình chứ?”
“Thật kinh khủng.”
“Dù lý do là gì, ông ta đã chết rồi. Và không ai có thể hiểu được ông ta nữa. Đó… có lẽ là phần duy nhất khiến tớ buồn.”
Khi tôi lầm bầm điều đó, Sumika đứng dậy.
Cô ấy chậm rãi bước tới, và trước khi tôi kịp phản ứng, hai cánh tay mảnh khảnh vươn ra và kéo đầu tôi tựa vào ngực cô.
Mọi chuyện xảy ra trong tích tắc.
Tôi nằm gọn trong vòng tay Sumika.
Điều đó gợi tôi nhớ đến mùa đông năm đó. Lần cuối cùng chúng tôi gần gũi như vậy. Giống như lần đó, tôi cảm thấy cơ thể mình buông lỏng vì sự thoải mái.
Rồi tôi nghe thấy tiếng nức nở từ phía trên đầu mình.
“Ư…”
“Tại sao cậu lại là người khóc, Sumika-san?”
“Bởi vì…”
Sumika không thể nói nên lời. Tôi nghĩ có lẽ đây là điều tôi nên làm, và vươn tay ra nhẹ nhàng xoa lưng cô ấy.
Và rồi tôi nhận ra—
“Sumika-san, đồng phục của cậu có mùi cà phê. Cậu lại tự mình tập pha à?”
“Đồ ngốc.”
Điều tôi thực sự muốn nói là đó là một mùi hương dễ chịu.
Đối với tôi, mùi cà phê là mùi của gia đình. Nhưng nếu tôi nói ra điều đó, tôi cảm thấy cảm xúc của mình có lẽ sẽ trào ra mất, nên tôi chỉ có thể đứng yên ở đó, giữ nguyên.
◇
Sau đó, tôi trở lại làm việc tại Sumire như mọi khi
Tôi thay đồng phục, đi xuống cầu thang và bước vào bếp.
Ở đó, tôi thấy chị Touno.
“Yo, Seiichirou. Em biết đấy, vì Sumika rộng lượng nên em nên nghỉ ngơi một thời gian.”
“Cái người đang làm việc với một vết thương đang nói kìa. Em sẽ lo lắng hơn mất nếu em không đến.”
“Ồ hô, nhìn em kìa~”
Chị Touno đang lau bát đĩa, một miếng băng quấn quanh mắt cá chân phải của chị ấy.
Vì chúng tôi đang làm trong ngành dịch vụ ăn uống, chị ấy không sử dụng bất kỳ túi chườm nào. Chị ấy nói rằng mình sẽ vượt qua giờ làm việc chỉ bằng băng dán.
“Chị ổn chứ?”
“Tàm tạm. Cái đêm chị bị trẹo chân nó còn sưng to gấp đôi ấy, nhưng chưa đầy một tuần và chị gần như đã lành rồi. Chà, dù sao thì chị vẫn còn trẻ mà~”
“Nếu chị thực sự còn trẻ như vậy, em không nghĩ chị sẽ bị trẹo mắt cá chân vì bất cứ điều gì ngoài chơi thể thao đâu.”
“Này, Seiichirou, cậu có muốn chị mày làm cho cậu khóc không?”
“X-Xin lỗi ạ…”
Tôi xin lỗi ngay lập tức.
Sau đó, tôi bắt đầu chuẩn bị dụng cụ pha cà phê.
Giữa chừng, tôi cảm thấy một ánh mắt kỳ lạ đang nhìn mình. Tôi không chắc chắn, và tôi sẽ rất xấu hổ nếu mình đoán sai, nhưng tôi vẫn quyết định hỏi:
“Chị đã nghe về bố em rồi, phải không?”
“Ừm, đại khái. Bố của Sumika nói với chị một lúc trước.”
“Em tưởng em sẽ cảm thấy tốt hơn khi biết ông ta qua đời, nhưng điều đó đã không xảy ra. Em thậm chí bắt đầu tự hỏi liệu có lẽ… ông ta có lý do riêng không. Tuy nhiên, em sẽ không bao giờ tha thứ cho ông ta vì đã khiến mẹ đau khổ.”
“Điều đó hoàn toàn ổn thôi. Trẻ con luôn kết thúc bằng việc chia ly với bố mẹ mình dù là dưới hình thức này hay hình thức khác. Cậu chỉ trải qua điều đó sớm hơn hầu hết mọi người. Đó là lý do cậu trưởng thành nhanh hơn những người khác.”
“Em hy vọng điều đó là sự thật.”
Cũng chẳng phải là thế giới đã bị đảo ngược hay gì.
Chỉ là một cảm giác chuyển đổi từ mùa đông sang mùa xuân. Đột nhiên không khí ấm hơn, và tôi nhận thấy mặt trời lặn muộn hơn.
Nếu là tôi của mùa đông vừa qua, tôi có lẽ đã phát điên khi nghe về kết cục của bố mình.
Nhưng bây giờ tôi lại bình tĩnh—vì tôi đã trải qua mùa đông tại Sumire.
Vì Sumika-san và Sumire đã ở bên tôi, nên tôi có thể giữ vững tinh thần như thế này.
Nơi này quan trọng với tôi. Hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy điều đó, và tôi quyết định dồn hết tâm trí vào công việc.
Nếu số lượng khách hàng giảm, thì tôi sẽ đặt sự chăm chút nhiều hơn vào từng tách cà phê. Tôi điều chỉnh hương vị để phù hợp với sở thích của từng khách quen. Tôi cười nhiều hơn. Tôi cũng duy trì việc học của mình.
Những ngày trôi qua như thế, và chẳng bao lâu sau, kết quả bắt đầu xuất hiện.
“Dạo này dùng loại hạt tốt hơn bình thường à?”
Tôi tình cờ nghe thấy một khách quen hỏi chị Touno.
Nghe thấy điều đó làm tôi vui mừng—những nỗ lực của tôi đang được đền đáp. Điều đó càng thúc đẩy tôi hơn nữa.
Có lẽ tôi đã làm tất cả những điều này để quên đi bố mình. Để chôn vùi tất cả những cảm xúc khó chịu, đau đớn và bối rối dưới một thứ gì đó khác.
Và cứ thế, tôi tiếp tục pha cà phê.
Đến khi tháng Tư kết thúc, thị trấn của chúng tôi đã phải đối mặt với một đợt nắng nóng bất thường, mặc dù vẫn còn là mùa xuân.
◇
Sau khi kết thúc công việc trong ngày, tôi ở lại Sumire, học bài ở quầy bar.
Lúc này, sảnh chính của quán cà phê với quạt trần có luồng không khí tốt hơn phòng tôi. Nó thoải mái hơn, và vì không có khách hàng xung quanh, tôi có thể tập trung mà không bị phân tâm.
Cảm giác giống như tận hưởng tất cả các lợi ích của việc học trong quán cà phê—mà không có bất kỳ nhược điểm nào. Một đặc ân thực sự.
Tôi đang tập trung vào bài tập thì nhận thấy Sumika đã lặng lẽ tiến lại gần.
“Xin lỗi. Cậu đang học phải không?”
“Không sao. Tớ vừa làm xong.”
Cô ấy đến gần tôi một cách im lặng đến mức tôi thực sự ngạc nhiên, nhưng tôi đứng dậy, thu dọn ghi chép và dẹp chúng sang một bên.
“Vì gần đây trời nóng, muốn luyện tập pha cà phê đá không? Nó khó hơn cà phê nóng, nhưng không cần điều chỉnh hạt nhiều bằng nên đỡ đau đầu hơn.”
Việc chỉ làm nguội một ly cà phê nóng thông thường không tạo ra cà phê đá ngon. Bạn cần một hỗn hợp hạt cụ thể được tạo ra riêng cho nó.
Một số quán cà phê chỉ phục vụ đồ làm sẵn, nhưng ở Sumire, chúng tôi tự pha cà phê đá tại quán. Đó là mức độ nghiêm túc của chúng tôi.
Đó là bằng chứng cho thấy người chủ sở hữu trước đây đã tận tâm như thế nào—bà ấy thậm chí còn để lại một công thức cà phê đá chi tiết.
“Sumika-san?”
Tôi đã nghĩ Sumika sẽ hào hứng với ý tưởng này, nhưng cô ấy chỉ đứng đó, bất động.
Khi tôi nhìn kỹ hơn, trông cô ấy có vẻ không vui. Khi mắt chúng tôi chạm nhau, cô ấy nở một nụ cười nhỏ nhưng gượng gạo.
“Gần đây cậu đã làm việc rất chăm chỉ nhỉ, Seiichirou-kun. Cả trong học hành và làm việc.”
“À, ừm… Tớ cũng không có gì khác để làm.”
“Cậu thật tuyệt vời. Sau tất cả những gì cậu đã trải qua… Tớ thực sự nghĩ rằng việc cậu vẫn cố gắng nhiều như vậy là rất đáng kinh ngạc.”
Một phần trong tôi không muốn nghe bất cứ điều gì gợi nhớ đến bố tôi. Một phần khác chỉ cảm thấy ngượng ngùng vì lời khen. Nhưng hơn hết, tôi bắt đầu cảm thấy ngực mình thắt lại—một điềm báo xấu.
“Có chuyện gì xảy ra à?”
Tôi hỏi một cách cẩn thận.
“T-Tại sao cậu lại nghĩ vậy?”
“Chúng ta đã làm việc cùng nhau hơn một năm rồi. Tớ có thể nhận ra khi nào cậu đang mang vác điều gì đó nặng nề.”
Mắt cô ấy mở to—rồi cụp xuống sàn nhà. Cô ấy lo lắng siết chặt bàn tay phải bằng tay trái.
“Có lẽ cậu đang tự hỏi điều này đến từ đâu, và tớ hiểu rằng nó đột ngột. Nhưng… tớ có một đề xuất.”
“Một đề xuất?”
Sumika ngước nhìn lên.
“Tớ đang nghĩ đến việc đóng cửa Sumire.”
Bộ não tôi mất một lúc để xử lý những lời khó hiểu đó.
“…Gì cơ?”
Tôi bắt đầu suy nghĩ.
Điều này đã từng xảy ra một lần trước đây—vào mùa đông. Lần đó, lý do là vì tôi.
Nhưng lần này, tôi không làm gì cả. Ít nhất, tôi khá chắc chắn về điều đó. Và không đời nào Sumika lại nói điều gì đó như thế này như một trò đùa. Vậy thì… có chuyện gì đã xảy ra?
“Tại sao? Tại sao cậu lại nói điều đó?”
Sumika hít vài hơi thật sâu, rồi nhìn tôi.
“Chúng ta có kỳ thi tuyển sinh vào năm tới. Việc học sẽ đòi hỏi nhiều hơn. Nó sẽ quyết định tương lai của chúng ta nữa. Vì vậy, tớ nghĩ có lẽ không phải là ý tồi khi bán Sumire ngay bây giờ—biến nó thành tiền khi chúng ta vẫn còn có thể.”
Cô ấy tiếp tục, lời nói tuôn ra dồn dập.
“Tớ thực sự hạnh phúc vì đã được phục vụ cà phê cho Sara-chan, Shi-chan, và cả bạn bè của cậu nữa, Seiichirou-kun. Thế là đủ cho những kỷ niệm rồi, phải không? Hãy bước tiếp và tập trung vào việc học nào!”
Cô ấy mỉm cười.
Nhưng đó là một nụ cười gượng ép.
Đó là một nụ cười mà tôi không bao giờ muốn thấy từ cô ấy.
Nghe rằng Sumika muốn từ bỏ Sumire—rằng nơi này có thể bị lấy đi khỏi tôi—khiến tôi cảm thấy một cơn giận âm ỉ bên trong.
Nhưng dù sao đi nữa...
“Cậu không nghiêm túc, phải không?”
Tôi cố gắng hết sức để giữ giọng điệu bình tĩnh, không để sự thất vọng tuôn ra.
Tôi đã từng bị những người tôi quan tâm phản bội trước đây.
Nhưng tôi không muốn cho rằng mình hiểu mọi thứ và bỏ cuộc mà không lắng nghe cô ấy.
“Nếu có chuyện gì đang xảy ra, hãy nói với tớ.”
“Tớ vừa nói rồi mà.”
“Tớ vẫn chưa nghe được cảm xúc thực sự của cậu, Sumika-san.”
“Không có gì như thế cả… Không có cảm xúc thực sự hay bất cứ điều gì…”
Đó là một lời nói dối. Tôi biết là vậy. Bởi vì—
“Cậu đã nói với tớ, phải không? Cậu muốn biến Sumire thành quán cà phê tốt nhất ở Nhật Bản, thậm chí mở thêm chi nhánh nữa. Đó không phải là kiểu giấc mơ mà người ta từ bỏ dễ dàng như vậy, phải không? Cậu đã nghiêm túc với giấc mơ của mình, và đó là lý do tại sao bây giờ tớ cũng chia sẻ nó.”
“Seiichirou-kun…”
“Mối quan hệ của chúng ta không mong manh đến mức cậu thậm chí không thể nói cho tớ biết lý do thực sự, phải không?”
Người ta có thể nói rằng mối quan hệ của chúng tôi mới chỉ kéo dài có một năm.
Nhưng chúng tôi đã hy sinh thời gian với bạn bè, từ bỏ giấc ngủ, và làm việc rất chăm chỉ để giữ cho Sumire tồn tại.
Sumika mím chặt môi… rồi cuối cùng rũ vai thất bại.
"Doanh thu của Sumire... đã sụt giảm một thời gian rồi. Với tốc độ này, chúng ta sẽ không cầm cự được qua cuối năm nay."
Đối với chúng tôi, điều đó không khác gì một bản án tử hình.
Đóng cửa vì nợ nần chỉ là một trong các quy tắc.
Nhưng chúng tôi đã dựa vào rất nhiều người, dành rất nhiều thời gian—chỉ để giữ cho nó không xảy ra.
Sumire cũng đã cứu tôi.
Mất đi nó… sẽ giống như trái tim tôi bị xé thành hai mảnh.
“…Tớ hiểu rồi.”
Điều duy nhất ngăn tôi không phát điên là cảm giác tội lỗi.
Một phần trong tôi muốn nói, Nếu mọi chuyện tệ đến mức đó, tại sao cậu không nói với tớ? Nhưng khi tôi nghĩ lại, đã có những dấu hiệu. Vụ việc ở tiệm burger, chuyến thăm của Haruhara—Sumika đã cố gắng nói về những khó khăn của Sumire. Ngay cả khi cô ấy cố gắng che giấu, nó luôn bật ra như một tiếng kêu cứu.
Cô ấy ngước nhìn tôi.
“Cậu không nghĩ là tốt hơn nên buông tay trước khi nó kéo chúng ta vào nợ nần sao?”
“Cậu không định làm điều đó vì học phí của tớ, phải không?”
“Tớ cũng phải tính cả học phí của tớ nữa. Điều đó hợp lý, phải không? Bán cửa hàng trước khi nó bị lỗ, và cả hai chúng ta đều đảm bảo tương lai của mình.”
Giọng cô ấy run rẩy.
“Vậy là tớ là lý do khiến cậu bị dồn vào chân tường, nhỉ… Tôi xin lỗi. Lẽ ra tớ nên nhận ra mới phải.”
Sumika nhanh chóng lắc đầu, bối rối.
“Không! Không phải vậy đâu! Tớ là quản lý của Sumire—đây là trách nhiệm của tớ!”
“Nhưng nếu không phải vì tớ, cậu đã chiến đấu cho Sumire đến cùng, phải không?”
“Không phải… Tớ không…”
Tôi vươn tay ra và nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay run rẩy, tê dại của cô ấy.
Khi tôi nắm lấy tay Sumika, cô ấy không hề chống cự.
Những ngón tay mảnh khảnh của cô ấy lạnh ngắt, như thể máu đã ngừng lưu thông, và lòng bàn tay cô ấy ướt đẫm mồ hôi.
Bàn tay đó—từng rất ấm áp—bây giờ cảm thấy thật mong manh, và điều đó khiến tôi buồn.
“Tớ đã định nói với cậu một cách đàng hoàng, nhưng mọi chuyện cứ chồng chất và tớ cứ trì hoãn… nên tớ sẽ nói bây giờ.”
Sumika chuyển ánh mắt từ hai bàn tay đang nắm lấy nhau lên mặt tôi.
“Đối với tớ, Sumire là một nơi quý giá. Nếu chúng ta mất nó, có lẽ tớ sẽ làm việc đến chết để giành lại nó. Tớ sẽ chạy khắp nơi để xây dựng một Sumire mới. Nhưng tôi cũng sẽ đảm bảo rằng tôi không đánh mất chính mình trong quá trình đó.”
Tôi thậm chí không muốn tưởng tượng một thế giới không có Sumire.
Tôi đã bị đuổi khỏi nhà này đến nhà khác—nhưng đây sẽ là một kiểu mất mát khác. Nó sẽ không phải là điều mà bạn chỉ gọi là “buồn” hay “chán nản.” Tôi biết nó sẽ hủy hoại tôi hoàn toàn.
Mặc dù vậy—
“Nếu nó thực sự trở nên bất khả thi, tớ sẽ khóc, bỏ cuộc và bước tiếp. Tớ sẽ tìm kiếm một mục tiêu khác. Đó là lý do tại sao tớ muốn đi học đại học, để có được kiến thức và kỹ năng. Ngay cả khi không có Sumire, tớ cũng sẽ không từ bỏ tương lai của mình.”
Hồi đó, Sumika đã lùi bước vì tôi.
Tôi nghĩ cô ấy đã lo lắng cho tôi kể từ đó. Cô ấy nói một cách mơ hồ, nhưng tôi cảm thấy cô ấy đã biết quán cà phê gặp khó khăn một thời gian rồi—vậy mà cô ấy vẫn ưu tiên tôi.
“Bởi vì… nơi tớ muốn quay về không phải là ‘Sumire.’ Mà là bất cứ nơi nào có cậu, Sumika-san. Tớ muốn chúng ta cười, khóc và uống cà phê—cùng nhau.”
“C-Cái gì—khoan đã, chuyện đó…!”
Sumika há hốc miệng rồi khép lại, mặt cô ấy đỏ bừng.
Tôi tiếp tục.
“Nhưng bỏ cuộc bây giờ là sai lầm. Nếu chúng ta bỏ cuộc bây giờ, chúng ta sẽ tan vỡ mất. Chúng ta sẽ hối hận vì đã không cố gắng hết sức trong suốt quãng đời còn lại. Cậu biết điều đó rõ hơn ai hết, phải không?”
Sumika nhắm mắt lại và hít vài hơi thật sâu.
Tôi chờ đợi câu trả lời của cô ấy.
Cuối cùng, cô ấy mở mắt—và ánh sáng tràn đầy năng lượng thường thấy đã trở lại trên khuôn mặt cô ấy.
“Cậu nói đúng. Chúng ta phải chiến đấu đến cùng.”
Cô ấy siết chặt tay tôi và đáp lại.
Cô ấy đã hỗ trợ tôi rất nhiều lần.
Và bởi vì cô ấy quan trọng với tôi đến thế, tôi không muốn chỉ là người được nhận nữa.
Nhưng có lẽ điều đó không còn cần thiết nữa, bởi vì khi ở bên nhau, sẽ luôn có những lúc một trong hai người bị tổn thương.
Và khi điều đó xảy ra—tôi muốn trở thành người có thể hỗ trợ cô ấy.
Đó là tương lai của tôi… không, tương lai của chúng ta, phải không?
◇
Sau khi cô ấy bình tĩnh lại, chúng tôi bắt đầu cuộc họp chiến lược.
Sumika đặt máy tính bảng mà cô ấy dùng để ghi sổ sách lên bàn và cho tôi xem biểu đồ doanh số và lợi nhuận trong vài năm qua.
“Trông có vẻ doanh số tăng mạnh vào mùa hè và mùa đông, nhưng nhìn chung đó là một xu hướng giảm.”
“Đây là biểu đồ của tháng này.”
Cô ấy chuyển sang hiển thị số liệu hàng ngày trong tháng Tư.
“Lại giảm nữa. Mặc dù tớ nghĩ lưu lượng khách hàng bắt đầu tăng trở lại vào giữa tháng.”
Các con số không khớp với những gì chúng tôi cảm nhận—có sự khác biệt rõ ràng giữa nhận thức và thực tế.
“Chúng ta vẫn không có nhiều khách hàng, và lạm phát không giúp ích gì. Chúng ta hầu như không kiếm được lợi nhuận. Thực đơn của chúng ta vốn đã có chi phí nguyên liệu cao, nên khi giá cả tăng lên, lợi nhuận của chúng ta chỉ đơn giản là sụp đổ.”
“Cái gì tăng nhiều nhất?”
“Không phải ‘cái gì’—mà là mọi thứ.”
“Thật tàn khốc.”
“Trứng, gạo và trái cây đặc biệt tệ. Thành thật mà nói, có lẽ chúng ta sẽ kiếm được nhiều tiền hơn nếu không làm món cơm trứng cuộn. Điều tương tự cũng xảy ra với món pudding—chỉ riêng cherry đã giết chết chúng ta rồi.”
"Nhưng cơm trứng cuộn là một món ăn phổ biến, và không thể thiếu cherry khi làm pudding được."
“Chính xác. Pudding mà không có cherry thì làm gì còn là pudding nữa.”
Ý tôi là… ý đó có thể hơi quá, nhưng quả thật nếu tôi nhận được pudding mà không có cherry ở quán cà phê, tôi chắc chắn sẽ cảm thấy thất vọng.
“Nếu là lạm phát thì sao không tăng giá? Điều đó tốt hơn là đóng cửa.”
“Nếu chúng ta tăng giá khi hầu như không có khách hàng, chúng ta có thể mất đi những người đang có.”
“Nó hoạt động như thế sao?”
“Bà tớ hầu như không bao giờ tăng giá, nên chúng ta không có dữ liệu chắc chắn, nhưng dù sao đi nữa—bất cứ khi nào giá tăng, một số lượng khách hàng nhất định sẽ ngừng đến. Đó là lý do tại sao ta chỉ có thể tăng giá khi việc kinh doanh đang tốt.”
Sumika lướt qua máy tính bảng và mở dữ liệu hàng năm cũ hơn.
Có các ghi chú và chú thích bên dưới biểu đồ, nhưng tôi không thể hiểu được chúng ngay lập tức.
“Khoan đã, bà cậu đã giữ sổ cái và còn nhập tất cả dữ liệu này à? Thật sự tuyệt vời đấy. Một quản lý từ đợt bùng nổ quán cà phê thời Showa mà còn giỏi sổ sách nữa—thật đáng nể.”
Sumika bật cười.
“Không, không! Bà tớ cực kỳ tệ với máy móc. Bà ấy từng cầm bộ điều khiển N64 ngược, nghiêm túc đấy. Tớ đã nhập tất cả dữ liệu này từ những sổ cái bà ấy giữ.”
“Đó là… Chà. Đây là dữ liệu trong bao nhiêu năm vậy?”
“Fufun~!”
Ngay cả Sumika cũng trông thực sự tự hào—chắc hẳn đó là một công việc khổng lồ.
“Vậy nếu chúng ta có thể thu hút thêm khách hàng rồi sau đó tăng giá, chúng ta sẽ ổn chứ?”
“Tăng giá là cách cuối cùng. Hiện tại, nếu chúng ta chỉ cần cầm cự cho đến khi lạm phát hạ nhiệt, đó sẽ là một sự giúp đỡ rất lớn. Nếu chúng ta có thể khiến khách hàng gọi các món chi phí cao kèm với các món lợi nhuận cao, chúng ta có thể sống sót lâu hơn một chút.”
“Các món lợi nhuận cao sẽ là đồ uống như cà phê, phải không?”
“Tớ vừa nói là lạm phát là một vấn đề mà?”
Tôi cảm thấy một áp lực đột ngột từ Sumika như thể tôi vừa giẫm phải một quả mìn.
Khoan đã—chúng ta đã từng có cuộc trò chuyện này trước đây rồi phải không…?
“Ồ. Giá hạt cà phê…”
“Đúng vậy. Người rang cà phê lại gọi điện. Nói rằng giá hạt chắc chắn sẽ tăng.”
“Đùa à…”
“Đối với các quán cà phê, ta có thể kiếm lợi nhuận thông qua đồ uống lợi nhuận cao, hoặc chọn các mặt hàng giá cả phải chăng và thúc đẩy doanh số lớn. Nhưng với chi phí hạt tăng và ít khách hàng hơn, cả hai chiến lược đều không khả quan. Chúng ta cần một thứ gì đó để thu hút mọi người.”
“Thật khó khăn…”
Ngay cả khi tôi nói ra điều đó, tôi thực sự bị ấn tượng.
Sumika đã phải đối phó với tất cả những điều này—
Cân bằng việc học, giải quyết các mối quan hệ phức tạp, và quản lý công việc kinh doanh của Sumire.
Thành thật mà nói, bố cô ấy lẽ ra nên can thiệp nhiều hơn.
Nhưng biết tính Sumika, cô ấy có lẽ sẽ ghét điều đó. Và nếu tôi ở vị trí của cô ấy, tôi cũng sẽ ghét điều đó.
Đây là cuộc chiến của chúng ta. Chúng ta cần vượt qua nó cùng nhau.
"Tên người rang cà phê là Kanamori-san đúng không?"
“Đúng vậy.”
“Vào ngày nghỉ tiếp theo của chúng ta, tớ sẽ đi thăm xưởng rang của ông ấy. Xem liệu tớ có thể tìm thấy hạt cà phê tốt nào không.”
Sumika cau mày bối rối.
“Cậu định thay thế các hạt đắt tiền trong hỗn hợp của chúng ta bằng các lựa chọn thay thế rẻ hơn để cắt giảm chi phí à?”
Có vô số loại hạt cà phê trên thế giới, nhưng tất cả đều bắt nguồn từ ba giống gốc.
Điều đó có nghĩa là đôi khi, bạn có thể tìm thấy hạt rẻ tiền có vị rất giống với hạt cao cấp.
Nói cách khác, nếu bạn thực sự muốn, bạn có thể thay thế các hạt đắt tiền trong hỗn hợp bằng các hạt rẻ hơn có vị tương tự—và sẽ không ai biết.
“Tất nhiên là không. Nếu chúng ta thử điều gì đó như vậy, các khách quen yêu cà phê của chúng ta sẽ nhận ra ngay.”
“Vậy cậu định làm gì?”
“Tớ sẽ tạo ra một hỗn hợp mới khiến mọi người bàn tán. Một thứ gì đó sẽ giúp cứu Sumire. Ý tớ là, đây là một quán cà phê. Cà phê là bản sắc của chúng ta, phải không?”
“Một sản phẩm mới à… Nếu một hỗn hợp cà phê mới có thể thay đổi tình hình, chúng ta đã không gặp rắc rối ngay từ đầu.”
“Nếu tớ bảo cậu tin tớ… cậu có tin không?”
Sumika khoanh tay và vờ suy nghĩ—rồi bắt đầu khúc khích cười.
“Cậu thậm chí không cần phải nói.”
◇
Toàn bộ ý tưởng đi đến xưởng rang cà phê đến từ việc tôi bị chính Shirosuga "sấy"
Pha một tách cà phê ngon là làm nổi bật những gì tốt nhất của hạt—điều chỉnh mức độ rang và thời gian chiết xuất để phù hợp với hương vị.
Vì vậy, như Shirosuga đã nói, chỉ điều chỉnh độ đậm đặc là không đủ. Đó chỉ là bề nổi.
Chắc chắn có những thực đơn thay đổi thời gian chiết xuất hoặc tỷ lệ sữa—điều đó là phổ biến. Nhưng ngay cả những công thức đó cũng dựa trên những hạt cà phê đã được chọn lọc cẩn thận để đạt được sự cân bằng cụ thể đó.
Hôm đó là thứ Năm sau giờ học.
Tôi lên một chuyến tàu đi về phía nam từ nhà ga gần trường. Đi qua nhà ga gần Sumire nhất, và tiếp tục đi cho đến khi tôi đến một thị trấn xa hơn.
Khu vực này tự gọi mình là một “Edo Nhỏ”—một trong số những điểm du lịch quanh Nhật Bản với chủ đề đó. Có nhiều tòa nhà cổ kính, và rất nhiều khách du lịch nước ngoài.
Hoa anh đào vẫn nở rộ, có lẽ vì thị trấn chăm sóc cây cối rất tốt.
Mái ngói kiểu cổ và những cánh hoa màu hồng—gần như mang tính khuôn mẫu một cách đau đớn, nhưng lại là một cảnh đẹp không thể chối cãi.
Tôi gần như dừng lại để chiêm ngưỡng những bông hoa nhưng buộc mình phải tiếp tục di chuyển ra khỏi khu du lịch và vào khu dân cư.
Xưởng rang cà phê là một cơ sở kinh doanh bán hạt cà phê mới rang.
Hầu hết các thị trấn đều có ít nhất một xưởng.
Một số là nhà máy nhỏ, số khác chỉ là quán cà phê có lắp đặt thiết bị rang.
Xưởng do Kanamori-san điều hành, đích đến của tôi, là một tòa nhà giống như nhà kho một tầng nằm trong một khu dân cư yên tĩnh.
Một số xưởng rang cà phê có mặt tiền cửa hàng nơi mọi người đều có thể mua hạt cà phê.
Cá nhân tôi, nếu uống cà phê tại nhà, tôi thà mua hạt từ một xưởng rang còn hơn là dùng cà phê hòa tan.
Cà phê mới rang do một chuyên gia dày dặn kinh nghiệm tại một xưởng rang thích hợp làm ra—đó là một đẳng cấp hoàn toàn khác biệt.
Nó thậm chí không còn là "cà phê" nữa. Nó là một thứ gì đó vượt ngoài cà phê luôn rồi.
Tôi đã từng nói với Sumika điều đó trước đây. Cô ấy đã quay mặt đi.
Cô ấy cũng muốn đến đây, nhưng đây là ngày duy nhất Kanamori-san rảnh. Và vì đó là ngày làm việc, chúng tôi đã nhờ người làm ca sáng kéo dài giờ làm để ít nhất tôi có thể đi.
Tất nhiên, tôi vẫn dựa vào khứu giác của Sumika-—cô ấy sẽ ngửi các mẻ thử khi chúng đã sẵn sàng. Chỉ điều đó thôi đã đủ an tâm rồi.
Đây là thời gian quý báu. Tôi không thể lãng phí nó nên đã vội vã đi.
Tôi bước vào khu vực xưởng rang cà phê.
Tòa nhà một tầng có nhiều lối vào, nhưng cửa kính dường như dẫn vào khu vực bán lẻ, nên tôi đi vào qua đó.
Bên trong, các kệ xếp đầy những túi hạt cà phê. Chỉ riêng mùi hương thôi đã đủ say mê rồi.
Nó không khác nhiều so với một cửa hàng trà truyền thống của Nhật Bản trên phố mua sắm, nhưng ánh sáng gián tiếp ấm áp và nội thất phong cách tạo cho nơi này cảm giác của một tiệm bánh ngọt sang trọng.
Tôi giải thích tình hình cho người ở quầy thu ngân, và họ sắp xếp cho Kanamori-san gặp tôi.
Nhờ Sumika đặt lịch hẹn dưới tên Sumire, Kanamori-san nhanh chóng ra chào đón tôi.
Kanamori-san là một người đàn ông vui vẻ với vóc dáng vạm vỡ.
Tôi gặp vợ ông ấy sau đó, và với nụ cười và tiếng cười đồng điệu, họ tạo thành một cặp đôi quyến rũ.
Tôi giải thích tình hình của chúng tôi và nhờ ông ấy giúp đỡ. Ông ấy đồng ý không chút do dự. Có vẻ như bốn quán cà phê độc lập khác đã đóng cửa chỉ trong năm nay, và ông ấy muốn giúp đỡ bằng mọi cách có thể.
Tôi nếm thử nhiều loại cà phê mà chúng tôi không sử dụng tại Sumire, cố gắng tìm ra nền tảng cho một hỗn hợp mới. Nhưng pha trộn cà phê không phải là điều có thể làm được trong một đêm.
Ngày hôm đó, tôi chọn ra những hạt cà phê mà tôi nghĩ mình sẽ cần và mang chúng về.
May mắn thay, tôi có được thông tin liên lạc cá nhân của Kanamori-san.
Ông ấy nói rằng sẽ rất vui lòng giúp đỡ nếu tôi cần bất cứ điều gì.
Ông ấy là một người thực sự yêu thích việc pha cà phê, và kỹ năng của ông ấy là không thể phủ nhận.
Ngay cả trong quá trình thử nếm, tôi nhận ra mình còn phải đi một chặng đường dài về cả kiến thức và kỹ thuật.
Tuy nhiên, trên chuyến tàu về nhà, ôm túi hạt cà phê trong tay, tôi cảm thấy phấn khích.
Đây là điều tôi có thể làm cho Sumire.
Nếu tôi có thể tạo ra một hỗn hợp thực sự thúc đẩy lợi nhuận, thì đó sẽ là đóng góp của tôi—bằng chứng cho thấy tôi thuộc về Sumire.
Và không có gì thú vị hơn điều đó.
Từ ngày hôm đó trở đi, tôi dồn hết tâm trí vào việc tạo ra một hỗn hợp cà phê mới.
Tôi thử nghiệm các sự kết hợp khác nhau, trộn bột, tạo ra hết thất bại này đến thất bại khác. Ngay cả khi một hỗn hợp có hương vị ngon, tôi vẫn loại bỏ nó nếu nó không có ý nghĩa về mặt tài chính—chỉ để lại một ghi chú cho sau này.
Tôi bắt đầu thức dậy sớm hơn bất cứ ai khác để làm việc ở sảnh quán cà phê. Vào buổi tối, tôi yêu cầu Sumika nhường lại một chút thời gian luyện tập của cô ấy để tôi có thể tiếp tục làm việc.
Nếu cảm hứng chợt đến trong lớp học, tôi sẽ ghi chú lại trong giờ nghỉ trưa để thử nghiệm sau.
Khi tôi giải thích mọi chuyện với Hachiya và những người khác, bọn họ nói rằng tôi là kiểu người sẽ lọt hố một khi đã bị ám ảnh vào một điều gì đó.
Có lẽ là họ nói đúng.
Cà phê mang tính chủ quan. Hương vị phụ thuộc vào người uống—không có thứ gì gọi là sự hoàn hảo cả.
Một số người ghét vị chua trái cây của hạt cà phê, trong khi những người khác lại yêu thích nó. Đó là lý do tại sao bạn cần một chủ đề rõ ràng—ly cà phê này dành cho mục đích gì?—đồng thời vẫn giữ được bản chất của Sumire.
Đó là một quá trình sáng tạo gần như tạo tác của thần thánh.
Bất cứ khi nào tôi cần một hồ sơ hương vị rang khác, tôi sẽ liên hệ với Kanamori-san, tan học sớm, và ghé qua xưởng rang trước khi Sumire mở cửa.
Tôi cũng đảm bảo không sao nhãng việc học—tận dụng cả thời gian đi lại.
Có lần, tôi ngủ quên ở sảnh sau khi đóng cửa.
Khi tôi tỉnh dậy, ai đó đã đắp chăn cho tôi. Sau đó Sumika đã mắng tôi, bảo tôi nên ngủ trên giường nếu mệt đến thế.
Khi tôi làm việc muộn, thỉnh thoảng cô ấy lại mang cơm nắm cho tôi ăn đêm.
Tôi ước mình có thể làm điều này hiệu quả hơn—nhưng tôi đã hoàn toàn đắm chìm mất rồi.
Chẳng bao lâu sau, lịch đã chuyển sang tháng Năm.
Và cuối cùng—tôi đã hoàn thành một hỗn hợp mà tôi cảm thấy tự tin để phục vụ người khác.
◇
“Cậu đã hoàn thành bản thử nghiệm rồi sao!?”
Trong buổi luyện tập cà phê đã được nối lại của chúng tôi, tôi gọi Sumika vào sảnh. Cô ấy hẳn đã đoán được ý định của tôi.
“Ừ. Cậu có thể giúp tớ nếm thử không?”
“Tất nhiên rồi! Tớ đã chờ đợi điều này suốt đó!”
Sumika trông bồn chồn và phấn khích, không thể ngồi yên khi cô ấy theo dõi mọi cử động của tôi.
Tôi mở tủ lạnh và lấy ra một bộ lọc nel và một cái nồi nhỏ có nắp đậy.
“Cái nồi đó là gì vậy? Tớ đã tò mò về nó trong suốt các ca làm việc.”
“Tớ đã để cà phê ủ lạnh.”
Tôi nghiêng nắp để cho cô ấy xem.
Sumika nhoài người qua quầy, nhón chân để nhìn vào chất lỏng màu nâu đỏ bên trong.
“Đây là hỗn hợp cà phê xay và nước. Tớ sẽ lọc nó như thế này qua phin.”
“Vậy đây là cà phê đá à?”
“Cold brew… đó là cà phê được ủ mà không dùng nước nóng.”
Tôi đặt bộ lọc nel vào vị trí, nhấc nồi lên, và từ từ đổ chất lỏng vào bình đựng. So với kiểu nhỏ giọt nel thông thường, bình đựng đầy nhanh hơn nhiều.
“Vậy đây là cách pha cold brew sao? Nó đã trở nên rất phổ biến gần đây phải không?”
Tôi lấy bình đựng ra và rót cà phê vào một ly chứa đầy đá. Một tiếng lách tách khẽ vang lên khi chất lỏng lạnh chạm vào các viên đá.
Không chút do dự, tôi đưa ly cold brew mới pha cho Sumika.
“Thử đi.”
Chất lỏng màu nâu hổ phách trong ly trong suốt với một chút màu đỏ.
“Đó là một ly cà phê rất đẹp.”
Cold brew có màu gần với màu hổ phách hơn cà phê thông thường. Khi được đưa ra ngoài, những viên đá khúc xạ ánh sáng khiến chất lỏng lấp lánh đẹp mắt.
Sumika chiêm ngưỡng màu sắc trong giây lát, rồi đưa ly lên môi.
“Ah, nó… không quá đắng.”
Tôi gần như thở phào nhẹ nhõm.
“Đó đúng là kiểu phản ứng của cậu đấy, Sumika-san.”
“K-Không phải là vậy! Nó có mùi rất đậm đà, nhưng vị lại không hề nặng chút nào!”
Vì được ủ ở nhiệt độ thấp, cold brew không giải phóng nhiều hợp chất đắng vào chất lỏng. Nhưng điều đó không làm nó trở nên nhạt nhẽo—nó cho phép hương vị và các nốt hương trái cây tỏa sáng.
Không phải tôi cần một bài học khoa học. Đây chính xác là hương vị tôi đã dành hàng tuần để hoàn thiện.
Nhưng nhìn Sumika uống cà phê của tôi với ánh mắt kinh ngạc như vậy—điều đó khiến mọi nỗ lực đều xứng đáng. Tôi nắm chặt tay trong lòng.
“Vì chúng ta không đun nóng bất cứ thứ gì nên nó tiết kiệm gas, và quy trình cũng đơn giản. Chỉ cần chúng ta cẩn thận với vệ sinh, bất cứ ai cũng có thể làm ra hương vị giống nhau.”
“Thật tuyệt vời. Tớ không thể tin được cậu đã nghĩ thấu đáo đến vậy, Seiichirou-kun!”
“Và điểm mạnh thực sự của loại này là khi chúng ta dùng nó trong các loại mocktail. Tùy thuộc vào thứ chúng ta pha với nó, chi phí mỗi ly có thể giảm xuống hơn nữa. Nước có ga là một lựa chọn tuyệt vời.”
“Nước có… ga?”
Khuôn mặt Sumika nhăn lại một cách nghi ngờ.
Tôi đơ người. Tôi đã nghĩ cô ấy sẽ vui.
“Cậu đã đề cập đến nó trước đây… pha cà phê với soda…”
“Ừ, và một số loại rất tệ, tôi không phủ nhận điều đó. Mọi người trên mạng cũng ghét bỏ chúng nữa. Nhưng khi pha đúng cách với cold brew phù hợp—nó thực sự ngon đấy.”
“Ừm…”
“Khoan đã, tớ sẽ pha ngay bây giờ. Chờ một chút nhé?”
Chế độ hoảng loạn: đã kích hoạt.
Tôi vừa mới đang rất tự tin. Không đời nào tôi có thể làm hỏng phần này được.
Tôi rót thêm cold brew vào một ly mới, pha loãng nó với lượng soda vừa đủ, thêm siro, và trang trí vành ly bằng một lát chanh.
Cà phê soda—hay chính xác hơn, một ly cold brew tonic.
Tôi đặt nó trước mặt cô ấy.
Sumika nheo mắt nhìn nó, đầy nghi ngờ.
Rồi cô ấy hít một hơi thật sâu.
“Chà, nếu Seiichirou-kun nói nó ngon… thì nó không thể quá kỳ quặc, phải không?”
Đâu phải cần chuẩn bị tinh thần nhiều đến thế... Tôi nghĩ thầm, trong khi dõi theo cô ấy sát sao.
Khoảnh khắc này gợi lại những ký ức hoài niệm.
Giống như lần đầu tiên tôi pha cà phê cho Sumika. Hoặc cảm giác của tôi khi tôi phải phục vụ khách hàng ở Sumire lần đầu tiên.
Hồi đó, mỗi khi ai đó uống ly cà phê tôi pha, tôi lại cảm thấy lo lắng.
Mặc dù tôi đã làm nó để làm họ vui, tôi luôn sợ hãi rằng họ sẽ không thích nó.
Tôi đã quen với điều đó sau khi làm đủ nhiều—nhưng cảm giác phấn khích hồi hộp đó trở lại vừa đau đớn lại vừa vui vẻ.
Khi chúng tôi mới gặp nhau, Sumika thậm chí không thể uống cà phê của tôi.
Nhưng điều đó đã thay đổi.
Cô ấy khuấy ly bằng ống hút, rồi cuối cùng nhấp một ngụm.
Và rồi—khuôn mặt cô ấy bừng sáng.
“Hãy đưa món này vào thực đơn đi, Seiichirou-kun!”
Khi Sumika vui, tôi cũng thấy vui.
Có lẽ… mẹ và bố tôi cũng cảm thấy như vậy, khi họ pha cà phê cho tôi.
Có lẽ họ đã cẩn thận chọn các hỗn hợp không chứa caffeine hoặc ít đắng để ngay cả một đứa trẻ như tôi cũng có thể uống được.
Và có lẽ họ đã theo dõi, hy vọng thấy tôi cười.
Nhưng tôi sẽ không bao giờ thực sự biết.
Không ai có thể hiểu họ nữa.
Và chỉ một chút thôi, điều đó khiến tôi buồn.
“Seiichirou-kun?”
“Ừm? À… Phải. Chúng ta có lẽ nên để một số khách quen nếm thử trước.”
“Đúng vậy. Có lẽ chúng ta có thể hỏi Sasaki-san. Nhưng chúng ta có lẽ nên để Touno-san thử trước. Và sau đó…”
Tôi rót cho mình một tách cà phê và ngồi xuống quầy.
Sumika nhìn qua và mỉm cười.
“Cũng lâu rồi nhỉ? Ngồi cạnh nhau và uống cà phê vào giờ này.”
“Gần đây tớ đã cố gắng hơi quá sức, nên có lẽ tớ sẽ trút bầu tâm sự một chút.”
“Tớ hoan nghênh điều đó.”
Tôi nhấp một ngụm cà phê.
Trong vị đắng nhẹ, tôi có thể nếm thấy một chút vị ngọt.
Cuộc sống và cà phê đều đắng—nhưng một ly cà phê như thế này thì không tệ chút nào.
◇
“Cold brew thì ngon, phải. Nhưng không nhiều người đến quán cà phê chỉ để gọi đồ uống có soda. Nó ngon hơn tưởng tượng, nhưng thực tế nó vẫn là một loại nước ngọt.”
Đó là nhận xét của chị Touno.
Chị ấy cũng nói thêm, "Chị hoàn toàn ủng hộ việc thêm món này vào thực đơn. Nó sẽ rất sảng khoái vào những ngày nóng."
Thông thường, việc thêm một món mới vào thực đơn sẽ đồng nghĩa với việc đặt mua nguyên liệu mới. Nhưng mọi thứ tôi sử dụng cho món này đều đã có sẵn trong kho của quán cà phê, ngoại trừ hạt cà phê.
Điều đó có nghĩa là chúng tôi có thể thêm nó vào thực đơn ngay trong ngày hôm đó.
Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn, chúng tôi đã nhờ những khách quen thử trước.
Sasaki-san, ông cụ vẫn thường xuyên ghé qua Sumire, luôn tử tế và dễ tính. Khi Sumika và tôi hỏi, ông đồng ý ngay lập tức.
“Cold brew à. Điều đó gợi nhớ ký ức đấy. Ta từng sống ở Kansai, và có một quán nhỏ tuyệt vời…”
“Nó cũng có thể dùng làm mocktail với nước tonic.”
“Mocktail?”
“Một loại cocktail không cồn.”
“Không cồn?”
“Cà phê soda!”
“À, cái đó. Giờ mọi thứ đều có những cái tên lạ mắt nhỉ.”
Lẩm bẩm một mình, Sasaki-san vẫn gọi cà phê soda.
Tôi mang nó ra ngay lập tức và chờ đợi ý kiến của ông ấy.
“Ừm. Phải… Ta chưa bao giờ thực sự thích loại đồ uống này.”
Phản ứng của ông khiến tôi hơi thất vọng.
Nhưng sau đó ông nói thêm:
“Tuy nhiên, nó gợi lại ký ức. Hai đứa có biết không? Hồi chủ cũ còn sống, quán có món cà phê soda trong thực đơn.”
“Gì cơ? Thật sao? Cháu không hề biết luôn,” Sumika-san nói, giọng cô ấy nhảy lên vì ngạc nhiên.
“Chuyện đó là từ hồi mẹ cháu còn ở tuổi cháu, Sumika-chan. Lâu lắm rồi.”
Sasaki-san vẫn uống hết ly và rời đi.
Tôi mang ly rỗng trở lại bếp và bắt đầu phân tích hậu kỳ.
“Có vẻ cuối cùng nó vẫn là một món kén khách. Ông ấy chỉ uống vì chúng ta hỏi. Không phải là thứ mọi người sẽ gọi thường xuyên.”
“Nhưng Sasaki-san nói ông ấy có thể sẽ gọi lại mà, nhớ không?”
“Ông ấy có thể chỉ lịch sự thôi. Có lẽ tớ nên thay đổi hương vị. Lẽ ra tớ cũng nên để ông ấy thử riêng cold brew…”
Nhưng sau khi dành hơn hai tuần để hoàn thiện công thức, không đời nào tôi có thể nghĩ ra một phiên bản tốt hơn chỉ sau một đêm được.
Và cứ thế, ngày hôm sau đã đến.
Trong ca làm việc ngày hôm đó, Ueki-san xuất hiện.
Ông ấy đã không quay lại kể từ khi quán burger mở gần nhà ga.
“Tôi nghe Sasaki-san nói quán đã bắt đầu bán cà phê soda?”
Ông ấy ngồi ở quầy, và tôi thấy một cơ hội.
“Chúng cháu mới chỉ mời mọi người nếm thử thôi, nhưng ông có muốn thử một ly không?”
Ueki-san suy nghĩ một lúc. “Không,” anh ấy nói.
“Nhưng tôi muốn một ly cold brew, nếu quán có.”
“Tất nhiên là được ạ. Một cold brew lên đây ạ.”
“Nhân tiện, cậu có thể cho kem vào không? Làm thành một ly float?”
Tôi liếc nhìn Sumika-san, người đang nấu món gì đó trong chảo. Cô ấy gật đầu.
Vì vậy, tôi tiếp tục làm một ly cà phê float bằng cold brew thay vì cà phê đá thông thường.
“Chính là nó,” Ueki-san vui vẻ nói.
Có vẻ như chúng tôi vừa thêm một món mới vào thực đơn.
Ngày hôm sau,
Lần này, Doujima-san, một trong những khách quen nữ lớn tuổi của chúng tôi đến.
“Tôi nghe nói quán đang mang thực đơn ngày xưa trở lại?”
“À, không hẳn—”
“Đúng vậy ạ!” Sumika chen vào, nhanh chóng và chắc chắn.
“Chúng cháu đang nghĩ đến việc thêm một số món mới vào thực đơn. Có món nào cô muốn uống hoặc ăn không, Doujima-san?”
Cold brew ban đầu được thiết kế để thu hút giới trẻ—một thứ gì đó hợp thời, một thứ để cạnh tranh với quán burger.
Nhưng giờ đây…
Điều đó... bằng cách nào đó lại chạm đến trái tim hoài niệm của các khách quen? Tôi biết đó là thứ đã tồn tại từ thời Showa, nhưng tôi không bao giờ mong đợi điều này.
“Quán có Cupid không?”
Đó là những gì Doujima-san lớn tuổi hỏi.
Tôi khựng lại giữa lúc đang chuẩn bị cà phê cold brew. Cupid? Đó là gì?
Tôi nhìn sang Sumika. Cô ấy chớp mắt bối rối, rõ ràng là không hiểu.
“Nếu vậy, để cháu làm. …Tránh ra, mấy đứa trẻ ranh này.”
Chị Touno bước ra từ phía sau bếp.
“Ồ thật sao? Tôi mừng quá. Nó gợi nhớ đến khoảng thời gian tôi hẹn hò với người chồng quá cố của mình. Đột nhiên cảm thấy hoài niệm quá đi.”
“Cháu học nó từ chủ cũ, nên cháu sẽ pha cho cô một ly ngon.”
Khi chị Touno mở tủ lạnh và khom người xuống, tôi cũng khom người. Và Sumika cũng vậy.
“Touno-san, ‘Cupid’ là gì vậy?”
“Calpis pha với cola.”
“Vậy nó chẳng liên quan gì đến cà phê…”
Chà, điều đó hơi thất vọng.
“Đây là cơ hội tốt, nên em và Sumika cũng nên học cách pha nó, Seiichirou. Có một chút mẹo nhỏ—em không thể để Calpis và cola trộn lẫn khi phục vụ. Em rót Calpis nặng hơn trước, để hai chất lỏng giữ được các lớp riêng biệt. Và nhớ thêm hai ống hút để các cặp đôi có thể cùng uống.”
Khi chị Touno đặt ly đồ uống hai màu, dễ thương lên quầy, Doujima-san vỗ tay như một đứa trẻ và thậm chí còn chụp ảnh bằng điện thoại thông minh của mình.
Sumika-san lấy một ly lớn và cố gắng bắt chước, nhưng cola và Calpis đã trộn lẫn và các lớp bị sụp đổ.
Dù vậy, cô ấy không bận tâm và nhấp một ngụm.
“Cái này ngọt quá… Các cặp đôi uống được cái này thật hả…?
Cảm giác như Sumika liếc nhìn tôi một thoáng, và tôi nhanh chóng lắc đầu phản đối.
Nghiêm túc mà nói, quán cà phê thời Showa là loại nơi nào vậy?
Trước khi tôi kịp tiêu hóa hết cú sốc về món “Cupid” đó, cuối tuần đã trôi qua—và đến giữa tuần, tôi nhận thấy điều gì đó kỳ lạ đang xảy ra ở Sumire.
Khách hàng đang quay trở lại.
Và không chỉ là bất kỳ khách hàng nào—có rất nhiều người trẻ tuổi.
Cà phê cold brew được gọi gần như thường xuyên như cà phê đá. Đó là một điều tốt, chắc chắn rồi, nhưng tôi chưa thể cảm thấy vui mừng về điều đó.
Chưa đầy một tuần kể từ khi chúng tôi chính thức thêm cold brew vào thực đơn.
Thông báo duy nhất của chúng tôi là từ tài khoản chính thức của Sumika và một vài trang web ẩm thực. Nếu việc thu hút khách hàng dễ dàng như vậy, Sumika đã không gặp khó khăn đến thế.
Tôi không thể hiểu được. Tôi vẫn bối rối khi ca làm việc kết thúc, và rồi tôi nhận được một tin nhắn trên điện thoại.
Đó là từ Kanamori-san, người rang cà phê đã giúp tôi học cách pha cold brew.
[Này. Mọi chuyện thế nào rồi? Có vẻ như cậu đang làm tốt đấy. (´▽`)]
Chỉ có vậy thôi.
Tôi trả lời, Cà phê có thực sự nhận được đánh giá tốt không ạ? và tất cả những gì tôi nhận lại được là một đường link URL lặng lẽ.
Nó liên kết đến một bài đăng của một tài khoản tự nhận là nữ sinh trung học. Chú thích ghi là, “Bà đang uống gì vậy?” kèm theo ảnh chụp màn hình từ một ứng dụng nhắn tin.
Trong ảnh chụp màn hình là các tin nhắn: “Hồi đó, bà và ông thường uống nó lắm.” và “Bà rất vui vì lại được uống nó.” Bức ảnh đính kèm bị mờ.
Nhưng khi tôi nhìn kỹ, tôi có thể nhận ra một chiếc ly quen thuộc… và một loại đồ uống với hai lớp tách biệt rõ ràng.
Không thể nhầm lẫn, đó chính là món Cupid mà khách quen của chúng tôi đã gọi tuần trước.
Bài đăng đã lan truyền thành một xu hướng viral nhỏ nơi mọi người cố gắng đoán xem đó là đồ uống gì. Cuối cùng, các câu trả lời bắt đầu xuất hiện từ những người cố gắng truy tìm chính quán cà phê đó.
“Thì ra là thế…”
Tôi thở dài thườn thượt.
Khi tôi nghe nói nó lan truyền nhờ một nữ sinh trung học, tôi đã nghĩ đến Shirosuga hoặc Haruhara—nhưng không phải họ. Nếu đó là cháu gái của một trong những khách quen của chúng tôi, thì có lẽ nó không hoàn toàn bất ngờ… nhưng dù sao đi nữa, cảm giác vẫn thật thất vọng.
Giống như Sumika đã nói, chỉ một ly cà phê thôi không thể thay đổi mọi thứ.
Đây chỉ là Sumire đang đáp ứng yêu cầu hoài niệm của một khách quen, chuyện này dẫn đến chuyện kia, và khách hàng—nhờ danh tiếng lâu năm của quán cà phê—bắt đầu quay trở lại.
Không phải cà phê của tôi đã mang họ đến.
Thật đúng là mình mà…
Ngay cả khi tôi cố gắng chấp nhận điều đó, tôi vẫn không thể xua tan sự khó chịu này.
Nếu một ly cà phê mà một học sinh trung học pha trong vòng một tháng có thể trở thành một cú hit, thì các barista chuyên nghiệp đã không phải chật vật đến vậy. Vậy mà—
Tôi vẫn thất vọng.
Một ngày nào đó, tôi muốn pha một ly cà phê thực sự khiến mọi người bàn tán.
◇
Ngày hôm sau trong ca làm việc, chị Touno huých nhẹ tôi một cách tinh nghịch.
“Thấy chưa? Đã bảo rồi mà, Seiichirou. Sumire sẽ ổn thôi.”
“Đó là nhờ công chúng ta chạy đôn chạy đáo đấy. …Chuyện gì đã xảy ra với câu ‘chúng ta đã sống sót bấy lâu nay nhờ không làm gì’ vậy? Nếu chúng ta thực sự để nguyên mọi thứ thì Sumire đã sập rồi.”
“Chị thừa nhận—Seiichirou, em đã thực sự làm việc chăm chỉ. Nhưng quán cà phê là một thứ xa xỉ, cậu biết không? Khi thời điểm khó khăn, người ta cắt giảm sở thích. Và khi điều đó xảy ra, cuộc sống chỉ cảm thấy khó khăn hơn. Đó là lý do tại sao, cuối cùng thì khách quen luôn quay lại.”
“Nhưng không phải chị đã nói viễn cảnh là tệ sao?”
Khi tôi đề cập đến bố tôi, đó là điều bố của Sumika đã nói. Chắc chắn chú ấy đã xem qua sổ sách như một phần thỏa thuận với Sumika.
“Bố của Sumika không ở Sumire, nên chú ấy không biết chuyện gì đang diễn ra bên ngoài. Chị cá là ông chú ấy thậm chí còn không biết một cốc mì ăn liền ở Nhật Bản hiện nay có giá bao nhiêu.”
“Thật nực cười mà…”
“Chắc chắn có những lý do để không lạc quan. Nhưng có điều đáng nói về một cửa hàng đã bén rễ trong cộng đồng hàng thập kỷ. Mọi người yêu Sumire.”
Chị ấy cố kết thúc câu chuyện như thể muốn tạo ra một nốt nhạc ấm áp, dễ chịu. Nhưng tôi không thể biết nên xem xét bất cứ điều gì bà chị này nói nghiêm túc đến mức nào.
“Hơn nữa, Sumika cũng không hoàn toàn ngây thơ đâu.”
“Ý chị là sao?”
Với một tiếng cười khúc khích tự mãn, chị Touno ghé sát và thì thầm vào tai tôi—tiết lộ chính xác kẻ chủ mưu thực sự lần này đã làm gì.
Sau khi chúng tôi dọn dẹp xong, Sumika và tôi gặp nhau như thường lệ. Chúng tôi đặt ly cà phê của mình bên cạnh và mở máy tính bảng.
“Thấy chưa? So với cùng tháng năm ngoái thì doanh số vẫn thấp hơn, nhưng xu hướng giảm đã dừng lại. Đó là một thành công lớn.”
Sumika đung đưa vai một cách vui vẻ khi cô ấy chỉ vào các con số trên màn hình từ quầy.
“Cá là tất cả là nhờ món đồ uống cũ kỹ kia—Cupid—và cháu gái của Doujima-san…”
“Không đúng. Cold brew cũng đang bán rất chạy mà!”
“Tớ nghe Touno-san nói rằng cậu đã lén lút tăng giá các món hàng retro hồi sinh. Không nghĩ rằng các khách quen sẽ nhớ, nhỉ?”
Nhờ vậy, lợi nhuận của chúng tôi đã tăng lên. Sumika đưa ngón tay lên môi.
“Suỵt! Đừng nói to điều đó! Cậu không biết ai đang nghe đâu. Và chúng ta đang hơi bị nổi tiếng đấy—một tin đồn kỳ lạ thôi cũng có thể khiến chúng ta bị chỉ trích!”
Không phải là chúng tôi đang thịnh hành hay gì. Nó giống như chúng tôi đã thu hút sự chú ý của một số tài khoản fan quán cà phê retro—chỉ vậy thôi.
“Vậy cuối cùng, là nhờ cậu, Sumika-san.”
“Không đời nào. Tất cả bắt đầu từ cà phê của cậu, Seiichirou-kun.”
“Phải, phải.”
“Cậu lại giận dỗi rồi.”
Tôi phớt lờ lời trêu chọc của cô ấy và nhấp một ngụm cà phê của mình.
Có vẻ đồ uống cho đêm nay sẽ là một thứ gì đó nóng.
Cách đây không lâu, tôi còn phải uống phần cold brew còn thừa. Nhưng bây giờ nó đã bán hết—nên phải, tôi đoán nó thực sự phổ biến thật.
“Cậu nghĩ Sumire sẽ ổn chứ?”
“Tớ sẽ chưa chủ quan vội, nhưng mà thấy ánh sáng cuối đường hầm rồi. Khi mùa hè đến, cold brew sẽ thực sự tăng doanh số. Và khi quán mới bên cạnh nhà ga mất đi sự bùng nổ sau khai trương, một số khách hàng sẽ quay lại với chúng ta.”
Sumika cuộn qua dữ liệu quá khứ trên máy tính bảng của cô ấy.
“Đã có những thời điểm tồi tệ hơn. Như trong đại dịch—ngay cả Touno-san cũng mất tinh thần lúc đó. Và mỗi khi giá tăng thì ít người sẽ đến hơn. Nhưng lần này, cậu là chủ đề bàn tán. Có lẽ một số khách hàng mới đó sẽ ở lại.”
“Được rồi, được rồi. Tớ hiểu rồi. Tớ không giận dỗi nữa, nên cậu có thể ngừng tâng bốc được rồi.”
Tôi không biết về Sumika, nhưng đối với tôi, tôi chưa bao giờ giỏi chịu đựng lời khen. Tôi luôn cảm thấy nó xấu hổ hơn bất cứ điều gì khác.
“Tớ không tâng bốc cậu.”
“Rồi, rồi.”
Tôi dựa vào quầy, chống má bằng một tay.
Rồi tôi cảm thấy ánh mắt của Sumika nhìn tôi, và khi tôi ngước lên, cô ấy đang ngồi thẳng lưng, đoan trang nhưng bất thường.
“Tớ nghĩ tớ đã làm điều gì đó hơi đáng xấu hổ với cậu, Seiichirou-kun.”
“Đáng xấu hổ?”
“Vâng. Cậu đã trải qua một khoảng thời gian khó khăn, nên tớ nghĩ tớ phải ở đó, lắng nghe mọi thứ, hỗ trợ cậu… nhưng bây giờ tớ tự hỏi liệu, sâu thẳm bên trong, tớ có đang coi thường cậu không.”
Cô ấy cười một cách tự ti.
“Đôi khi, tớ nghĩ tớ muốn giống Shi-chan hơn. Tớ luôn chỉ lướt qua bề nổi. Tớ không thể dồn hết tâm trí vào mọi thứ như cậu ấy được.”
Vào ngày mọi người tụ tập ở Sumire, Haruhara đã khóc trên đường về nhà. Cô ấy đã không tự dối lòng về cảm xúc của mình—điều đó rất rõ ràng.
Và đối với Sumika, sự trung thực đó hẳn là đức tính của Haruhara.
“Cậu dễ đoán lắm đó, biết không hả. Ít nhất là đối với tớ.”
Nhưng tôi nghĩ điều đó xảy ra chỉ vì cô ấy cố gắng hết sức để thể hiện bản thân khi ở bên tôi.
“...Cậu nghĩ vậy sao?”
“Nếu tớ không hiểu, cứ tiếp tục nói với tớ.”
“...Phải, cậu nói đúng.”
Sumika nhìn xuống.
Cô ấy nhẹ nhàng vòng tay quanh cốc cà phê như thể đó là một thứ quý giá, và nhấp một ngụm.
Đến khi cô ấy đặt nó trở lại bàn, đáy cốc đã lộ ra.
Trước khi tôi nhận ra, trời đã khá khuya.
“Đã đến lúc chúng ta đi ngủ rồi nhỉ. Với tất cả những công đoạn chuẩn bị thêm, chúng ta đã phải ngủ muộn hơn bình thường rồi.”
Tôi đặt hai chiếc cốc rỗng của chúng tôi lên khay và mang chúng vào bếp. Tôi đã thực hiện động tác này hàng trăm lần trước đây—đặt cốc vào bồn rửa và bắt đầu rửa chúng.
Vì cà phê cold brew phải được ủ lạnh trong tủ lạnh, chúng tôi phải chuẩn bị nó sau khi đóng cửa để nó sẵn sàng cho buổi sáng. Vì điều đó, thời gian uống cà phê buổi tối của tôi với Sumika đã bị đẩy lùi lại so với bình thường.
Tôi rửa sạch hai đĩa lót trước và đặt chúng thẳng đứng vào giá phơi.
Rồi tôi nhẹ nhàng dùng miếng bọt biển chà lên những chiếc cốc trang trí công phu, gần như là vuốt ve chúng.
Đột nhiên, tôi cảm thấy một tác động mềm mại vào lưng mình.
“...Hả?”
Từ tiếng thở của Sumika, tôi có thể biết cô ấy đang ở rất gần.
“Xin lỗi. Tớ biết tớ đang làm phiền. Nhưng… cứ để tớ ở yên như thế này thêm một chút nữa được không.”
Tôi nhận ra điều gì đang xảy ra khi cô ấy đặt tay lên lưng tôi.
Sumika đang tựa vào tôi.
Trái tim tôi bắt đầu đập thình thịch như trống.
Nhiệt độ cơ thể tôi tăng vọt, và tay tôi bắt đầu run rẩy. Tất cả những gì tôi có thể làm là hóa đá để tránh làm rơi bát đĩa.
Bên ngoài, gió mạnh rít lên, làm rung các ô cửa sổ. Những con côn trùng mùa xuân có lẽ cũng đang kêu—nhưng ngay lúc này, tất cả những gì tôi có thể nghe thấy là tiếng đập ầm ầm của chính trái tim mình.
