Sói và Giấy da: Tân Sói và Gia vị

Chương kế tiếp:

Truyện tương tự

Ác Tâm Trong Cô Nàng Không Giới Hạn

(Đang ra)

Ác Tâm Trong Cô Nàng Không Giới Hạn

Mubineko

Nghĩ đến thôi đã khiến toàn thân tôi chỉ còn lại nỗi sợ hãi ghê tởm.

145 3114

Hôm nay cô nàng phù thủy cũng cố gắng sống sót

(Đang ra)

Hôm nay cô nàng phù thủy cũng cố gắng sống sót

Tổng Tài Hạ Phóng | 总裁下放

Tôi chỉ muốn sống sót, không chỉ vì bản thân mình, mà còn vì người ấy – người đã cùng tôi nương tựa mà sống.

112 2401

Vô Song Dị Giới Nhờ Kỹ Năng Tẩy Não!? (LN)

(Đang ra)

Vô Song Dị Giới Nhờ Kỹ Năng Tẩy Não!? (LN)

KT

Một câu chuyện giả tưởng ấm áp mà dở khóc dở cười về năng lực tẩy não vô song và dàn harem tình cảm nồng nàn chính thức bắt đầu!

27 353

Năng Lực Bá Đạo Của Tôi Trong Game Tử Thần Là Những Thiếu Nữ Xinh Đẹp

(Đang ra)

Năng Lực Bá Đạo Của Tôi Trong Game Tử Thần Là Những Thiếu Nữ Xinh Đẹp

Giai thất

PS: Truyện thiên về đấu trí, thuộc thể loại vô hạn lưu. Tác giả đảm bảo dàn nhân vật chính (cả nam và nữ) sẽ không "bay màu", còn các người chơi khác thì.

574 6686

Mesugaki Tank Enters The Academy

(Đang ra)

Mesugaki Tank Enters The Academy

Gyeokgemheojeop

Điều tệ hơn là những lời khiêu khích hoạt động quá tốt...

5 15

Tôi trở thành nữ kỵ sĩ của một lãnh địa suy tàn

(Đang ra)

Tôi trở thành nữ kỵ sĩ của một lãnh địa suy tàn

Dongle-kun

Tôi đã định rời đi giữa những tràng pháo tay, nhưng pháo tay vẫn không chịu ngừng lại.

193 498

Volume 2 [Đang Tiến Hành] - Chương Bốn

Theo quy định, bất kỳ ai từ đất liền đặt chân lên đảo đều phải nghỉ tại nhà thờ.

Những vị khách đến từ Liên minh Ruvik cũng không phải ngoại lệ.

Họ tiến về phía nhà thờ kiên cố như pháo đài một cách phô trương, chẳng khác gì một đoàn sứ thần hoàng gia.

Những người bước xuống từ con tàu khổng lồ hoàn toàn khớp với thông tin Yosef đã truyền lại cho Col.

Dẫn đầu đoàn là bốn người cầm cờ, mỗi người giương cao lá cờ của Giáo hội. Đi theo con đường mà họ mở lối trong lớp tuyết là bốn hiệp sĩ Giáo hội khiêng một cái kiệu, bên trong là một người đàn ông oai nghiêm với khí chất vương giả.

Một tấm choàng thêu chỉ vàng phủ quanh vai ông, các ngón tay đeo đầy những chiếc nhẫn có đá quý to bằng nhãn cầu, và trên đầu là chiếc mũ nhọn biểu tượng cho ngôi vị giáo hoàng. Col không biết ông ta đến từ đâu, nhưng rõ ràng là đến từ một thành phố có nhà thờ chính tòa, và giữ chức tổng giám mục.

Với tư cách người đang theo đuổi con đường giáo sĩ, Col không thể làm gì khác ngoài thể hiện sự tôn kính tuyệt đối. Khi họ bước vào sân trong, cậu cúi đầu hành lễ, nhưng rồi lén liếc nhìn lên kiệu và thấy một người đàn ông tràn đầy sinh lực, còn khá trẻ so với địa vị của mình. Col đoán hẳn có điều gì đó phi thường bù đắp cho tuổi tác ấy. Có lẽ là tham vọng mà vị tổng giám mục ấy không giấu được hết trên gương mặt.

Một nhóm hiệp sĩ đông đảo theo sau, nhưng trong thời tiết giá buốt thế này, dù thân thể bọc kín trong giáp sắt, thì chiếc áo choàng mỏng phủ vai cũng chẳng giúp gì được nhiều. Tuyết nhanh chóng phủ trắng họ, và chẳng mấy chốc họ trông như những người tuyết bên lề đường. Gương mặt họ không phải căng thẳng vì giữ vẻ trang nghiêm, mà vì sợ bị cóng.

“Nhiều hòm vàng thế kia cơ à.”

Mấy cỗ xe ngựa theo sau. Yosef thì thầm nhận xét với Col, như thể không kiềm được.

Bốn con ngựa thồ lực lưỡng gục đầu kéo nặng nề từng bước một. Phía sau là một vị khách khác ngồi kiệu riêng, toàn thân quấn kín trong lớp áo lông, trông như một cục bông di động. Hẳn là vị thương nhân từ Liên minh Ruvik. Tùy tùng của ông ta đi theo từng đoàn, có thư lại cẩn thận mang các bọc lớn có thể là giấy da quý giá, và lính đánh thuê đi sau cùng.

Reicher là người ra tiếp đoàn. Gương mặt ông co giật, nhưng có vẻ không phải vì say xỉn như mọi khi. Hẳn lúc này ông đang tỉnh táo.

Cứ như thể một con sói vừa xuất hiện giữa bầy thỏ vậy.

“Anh nghĩ sao? Trong thư có nói nếu thấy có nguy cơ gì với hai người thì lập tức rút lui. Còn có cả chữ ký của Ngài Stefan ở Atiph, và cả một người tên là Ngài Hyland nữa. Quý tộc trong vương quốc ư?”

Dù nhìn cách nào thì lý do duy nhất khiến nhiều người như vậy xuất hiện vào đúng thời điểm này không gì khác ngoài mối xung đột giữa vương quốc và giáo hoàng. Sự lo lắng của Hyland không phải vô căn cứ.

Hyland chỉ yêu cầu anh điều tra tình hình, không hơn.

Nhưng nếu rời đảo trước khi hiểu rõ ý đồ của đối phương, thì thật chẳng hợp lý chút nào.

Col đã lưỡng lự trong giây lát, rồi sau cùng cậu lên tiếng.

“Chúng tôi đến để tìm đất xây tu viện, nhưng… cũng có một mục đích khác.”

Yosef chớp mắt ngạc nhiên, rồi nở một nụ cười thoáng bối rối.

“Tất nhiên rồi. Nếu đích thân Ngài Stefan cầm bút viết thư thì sao lại không chứ. Tôi hiểu tình hình mà.”

Ông ta nhún đôi vai to tướng, rồi đặt tay lên vai Col.

“Nếu cần gì, xin cứ nói. Tôi sẽ giúp trong khả năng.”

Col thoáng lưỡng lự về việc có nên tin Yosef không, nhưng rồi quyết định tin. Nếu ông ta không có lòng thành, chắc đã chẳng vội vã chạy đến đón ngay từ khi họ mới bước xuống tàu. Chỉ để chắc ăn, cậu liếc sang Myuri, một con sói giữa loài người đúng nghĩa. Thấy ánh mắt dò xét của cậu, cô bé nhếch môi cười nghịch ngợm. Bản năng của cô bé cũng nói rằng không có gì nguy hiểm.

“Tôi muốn biết họ tới đây vì điều gì.”

Yosef đáp lại ánh nhìn bằng đôi mắt sâu sắc của người từng sống trong vùng đất khắc nghiệt.

Ông nhìn thẳng vào mắt Col một lúc lâu. Có lẽ ông đã thấy điều gì đó, vì ông từ từ nhắm mắt lại, đặt tay lên ngực và nghiêm trang cúi đầu.

Đúng lúc đó, vị tổng giám mục uy nghi bước xuống kiệu, ôm lấy Reicher một cách khoa trương. Trong lúc ấy, các linh mục phụ tá bước lên trước, cất cao giọng, cố gắng mở đường cho những vị khách cao quý.

“Tầm này thì chắc chúng ta bị đá ra khỏi phòng mình rồi.”

Họ đã được cấp cho một căn phòng riêng vượt xa tiêu chuẩn bình thường, đơn giản vì hội trường chẳng có ai khác thuê cả.

“Nhà họ hàng của tôi có chỗ ở đây. Sao không tới đó ở tạm? Người dân ở đây không thích họ lắm, nhưng chắc trong tình cảnh này cũng chẳng ai dám nói gì đâu.”

Dân ở đây phần lớn đều nghĩ rằng dây dưa với đám thương nhân từ phương nam chỉ đem lại rắc rối.

Chỉ vậy thôi cũng đủ cho thấy sự chênh lệch về quyền lực.

Liên minh Ruvik và vị tổng giám mục đi cùng hẳn đã biết rõ điều đó, vậy nên Col đoán họ đang cố tình thể hiện thế lực. Bất kể mục đích của họ là gì, đây chắc chắn như một cách khoét sâu mâu thuẫn trong vùng trong bối cảnh cuộc chiến với Vương quốc Winfiel có thể bùng nổ. Những hòm vàng chất cao như núi kia chính là sự thị uy trắng trợn.

Vùng đất này thực sự thiếu tiền. Nếu có đủ vàng bạc, biết bao khó khăn họ có thể tránh được. Ngay cả Col cũng từng nghĩ đến việc dùng tiền để lôi kéo họ.

Thế nhưng vẫn có nhiều điểm bất thường trong chuyện này.

Những hòn đảo này vốn là nơi Giáo hội từng nhiều lần cố chiếm lấy, nhưng đều thất bại. Nếu xét theo tiền lệ đó, thì cậu thấy những chiến thuật quá lộ liễu thế này chỉ càng gây phản cảm. Thậm chí còn có thể phản tác dụng.

Ví dụ như nếu người dân trên đảo dùng số tiền đó để vũ trang, đóng thêm tàu mới, thì sẽ càng khó kiểm soát họ bằng vũ lực. Liên minh Ruvik là liên minh thương nhân, chủ yếu có trụ sở ở xa hơn cả Công ty Debau phía nam. Dù họ có sở hữu bao nhiêu tàu khổng lồ đi nữa, cũng không thể nào kiểm soát vùng đảo phương bắc mãi được. Gửi một hạm đội để giám sát trong thời chiến là điều bất khả thi với bất kì ai.

Nếu người dân nơi đây hành xử hợp lý, thì bọn cướp biển nòng cốt, bao gồm cả đảo Caeson, sẽ tranh thủ vắt tiền của Liên minh Ruvik trước, rồi sau đó sẽ chấn chỉnh nội bộ, rồi gửi lời thân thiện đến Vương quốc Winfiel. Hoặc thậm chí họ có thể dọa can thiệp vào chiến tranh. Bằng cách liên tục nghiêng cán cân về phía nào có lợi hơn vào thời điểm đó, họ sẽ vừa ăn được bánh vừa giữ được bánh. Thậm chí có thể vừa moi tiền từ cả hai phe. Với một người như Autumn, không có lý do gì để bỏ lỡ cơ hội như vậy.

Việc moi tiền từ Giáo hội hay một nước giàu không khiến người có lương tâm cảm thấy cắn rứt, khác xa với việc bán con gái của một ngư dân què chân cho bọn buôn nô lệ.

Vậy nên câu hỏi đặt ra là: nếu Col có thể nghĩ tới mức đó, thì chẳng lẽ Liên minh Ruvik và tổng giám mục lại không nhận ra?

Hay là chính các thương nhân lớn đang xúi giục tổng giám mục ra những quyết định thiếu suy nghĩ? Có thể họ đã thuyết phục ông rằng vùng đất này là nơi nghèo đói đang chờ được cứu rỗi, và rằng chỉ cần ban phát cho họ thật nhiều tiền, dân nơi đây sẽ quay sang ủng hộ họ trong cuộc chiến chống lại Winfiel. Nếu thế, họ sẽ có được thị trường tiêu thụ hàng hóa, từ đó kiếm lời.

Nhưng vấn đề cốt lõi của kế hoạch đó vẫn là khả năng bị phản bội. Nếu dân trên đảo không ủng hộ họ trong chiến tranh như kỳ vọng, thì kẻ bị truy trách nhiệm sẽ là người đã truyền thông tin sai lệch.

Chưa kể còn điều Yosef từng nói, thương nhân không làm chuyện gì vô ích. Nếu họ mang theo cả đống vàng, thì chắc chắn họ mong thu về thứ 

Khả năng không cao rằng họ sẽ mua lấy số lượng cá tương ứng.

Họ đang định đem về thứ gì vậy?

Dù tổng giám mục định dùng tiền để đổi lấy đặc quyền nào đó, thì với một thương nhân, chỉ đem tiền tới và chẳng mang gì về là chuyện quá phi lý.

Cán cân đang không cân bằng.

Toàn bộ tình hình này có điều gì đó rất lạ.

“Anh lại đang nghĩ linh tinh nữa à?”

Khi Myuri cất tiếng gọi, Col mới bừng tỉnh khỏi dòng suy nghĩ.

Đoàn rước vào nhà thờ giờ đã yên ổn, ai nấy bắt đầu tìm chỗ nghỉ. Người còn lại trong sân chủ yếu là những thương nhân không thuộc Liên minh Ruvik hoặc mấy người khuân vác. Tuyết đã rơi suốt cả ngày giờ càng lúc càng dày, thế nhưng có vẻ ai cũng quên mất cái lạnh sau khi chứng kiến một sự kiện bất ngờ đến vậy.

“Phải, anh cứ cảm thấy có điều gì đó không hợp lý.” Col thắc mắc thành tiếng, khiến Myuri và Yosef đưa mắt nhìn nhau.

Rồi một giọng oang oang vang lên từ bên ngoài sân:

“Toàn bộ chỗ nghỉ trong nhà thờ giờ thuộc quyền sử dụng của Liên minh Ruvik! Ai đang lưu trú tại nhà thờ, xin vui lòng chuyển xuống thị trấn cảng! Nếu không tìm được chỗ ở thay thế, hãy đến trình bày đề xuất với chúng tôi! Toàn bộ chỗ nghỉ trong nhà thờ giờ thuộc về Liên minh Ruvik!”

Điều đầu tiên mà vị tổng giám mục và thương nhân giàu có của Liên minh Ruvik làm chính là nhét đầy vàng vào túi nhà thờ.

Còn những ai không có tiền thì bị đá ra ngoài trong tiết trời giá rét.

“Trời ạ, xa hoa thế này đúng là uổng phí vào cái thời điểm chẳng có ai.”

Yosef vừa vuốt râu vừa cười hờ hững.

“Vậy thì để tôi đưa hai người đến nhà họ hàng nhé?”

“Vâng, cảm ơn ông rất nhiều.”

“Không có gì đâu. Dù sao thì Ngài Stefan cũng từng viết cho tôi không ít lần, dặn dò phải biết giữ lễ nghĩa cho đàng hoàng.”

Nghe vậy, Col không khỏi tưởng tượng cảnh Stefan lúi húi viết thư trong tâm trạng đầy lo âu.

Chỉ nghĩ tới thôi là lương tâm anh cũng cắn rứt dữ dội rồi.

Sau đó, họ thu dọn hành lý rời khỏi nhà thờ.

Liên minh Ruvik và vị tổng giám mục.

Quả là một cặp đáng ngờ.

~~~

Bên trong ngôi nhà cao với các góc tường sắc nhọn ấy trông chẳng khác nào một hang động.

Sàn nhà được nện đất chặt, giữa phòng đặt một bếp lò đá cao ngang hông, xung quanh là các món đồ gỗ sắp xếp ngăn nắp.

Ngôi nhà có cầu thang dẫn lên tầng hai, nhưng tầng trên chỉ chiếm một phần nhỏ. Phần lớn không gian phía trên để lộ ra tận mái nhà, nơi hệ thống xà ngang đan chéo cả theo chiều dọc lẫn chiều ngang. Từ các xà này, người ta treo đầy cá và rau củ, dường như đang được hun khói từ bếp lò bên dưới.

Myuri ngửa cổ lên, há miệng nhìn đám đồ ăn treo lủng lẳng như thể đang trông thấy lũ dơi treo mình trong hang. Cô bé ngẩn ngơ trước những món dự trữ kiểu xứ lạnh.

“Thấy gì thú vị à?”

Một giọng the thé mang theo vẻ trêu chọc cất lên, là của một bà lão, khuôn mặt nhăn nheo đến nỗi không biết mắt đang mở hay nhắm.

Nhà của họ hàng bên phía Yosef chỉ có bà lão này và vợ của con trai bà sinh sống. Con trai và cháu trai bà hiện đều đang làm việc tại Atiph.

“Nếu nằm ngửa ngủ trong đây chắc em sẽ mơ toàn thấy đồ ăn mất.”

“Heh-heh-heh.”

Myuri cũng từng nói câu tương tự khi ngủ dưới chăn len. Col liếc nhìn cô bé rồi cúi đầu cảm tạ hai người phụ nữ vì đã cho họ ở nhờ, còn đưa cho người vợ vài đồng bạc. Người phụ nữ này, trông lực lưỡng hơn cả Col, bắp tay đầy cơ bắp, eo lại chắc nịch, còn lòng tin đạo thì chẳng thiếu chút nào. Bà biết ơn Col đến nỗi khiến cậu cảm thấy bối rối và có chút tội lỗi vì bản thân thực ra chẳng phải là linh mục.

Sau khi chào hỏi xong xuôi, Yosef vội vã ra ngoài dự cuộc họp trong làng. Người chủ trì không phải Autumn, mà là các bô lão vốn phụ trách công việc thường nhật của đảo, nên Yosef nói rất có thể họ sẽ bàn chuyện khẩn cấp để ứng phó tình hình. Việc một con tàu khổng lồ đột ngột xuất hiện hẳn khiến dân làng Caeson chấn động không ít.

Còn hai người phụ nữ trong nhà thì lại vô cùng hào hứng khi được tiếp đón hai vị khách lạ. Cả bà lão cũng xắn tay áo vào bếp chuẩn bị bữa tối.

Không có việc gì làm, Col và Myuri ngồi bên lò sưởi. Song cậu không sao ngồi yên ngắm ngọn lửa cháy âm ỉ, đành bước ra ngoài.

Trời vẫn chưa tắt nắng hẳn, nhưng mây dày đã che phủ cả bầu trời, khiến cảnh vật chìm trong sắc xám buồn u ám. Cảm giác mờ mịt ấy chẳng khác nào khi anh đứng trên bãi biển lúc trước.

Cậu vòng ra vườn sau và thấy một cái nhà kho. Tuyết vẫn rơi, cậu trú dưới mái hiên phía sau.

“Anh mà cứ ra ngoài kiểu này là ốm đấy.”

Myuri đi theo ra ngoài, áp đôi bàn tay đeo găng da lên má cậu rồi trách móc.

“Anh thấy bất an quá.”

“…”

Cô bé chỉ im lặng ngước nhìn cậu khi họ đứng cạnh nhau. Vẻ mặt cô bé pha chút bực dọc—anh mắt Myuri như muốn nói Lại nữa à?

“Chừng ấy thùng vàng bạc, hẳn là họ sẽ đặt ra điều kiện, dù dân đảo có muốn hay không.”

“Nhưng mà, không phải có tiền là tốt sao? Dân ở đây đang thiếu thốn mà.”

Cô bé nói đúng, và chính điều đó mới càng khiến cậu lo.

“Anh không nghĩ họ làm vì lòng tốt đâu.”

“À thì, mấy người ngồi kiệu kia nhìn chẳng tử tế gì cho cam.”

Cô bé cười khúc khích.

“Và anh cần phải điều tra xem họ sẽ ra điều kiện gì với người trên đảo. Nếu không làm được, anh sẽ không thể hoàn thành sứ mệnh mà điện hạ Hyland giao cho. Nếu đàm phán kết thúc nhanh chóng, anh càng phải nhanh chóng báo cáo lại mọi thứ.”

“Chà, chuyện đó chắc em không quan tâm lắm đaia.”

Myuri ngồi xổm xuống, nắm tuyết lại thành một nắm và bóp chặt.

“Vậy ta làm gì đây? Em có cần rình mò bên tường không?”

Cô bé ném quả cầu tuyết rồi vung tay lên cao, lắc lắc như đang làm trò con nít.

Trông chẳng khác nào bắt chước thỏ, nhưng cô bé rõ là một con sói, loài ăn thịt chúng.

“Nếu họ chiếm hết phòng trong nhà thờ, tức là họ muốn tránh bị người khác tiếp cận. Muốn nghe lén, em phải lẻn bên ngoài bức tường. Nhưng dù tai em có thính đến mấy thì cũng khó lòng nghe được tiếng nói vọng ra từ bên trong, đúng không?”

“Vậy thì em biến thành sói rồi lén vào. Tuyết rơi ban đêm như thế này thì chẳng ai phát hiện được đâu.”

Bộ lông của Myuri là sự pha trộn giữa tro và bạc. Ngay cả thợ săn lão luyện cũng khó lòng nhận ra cô bé trong đêm tuyết phủ.

“Ừ, nếu em thật sự giúp được anh thì tốt quá… Không, nhưng mà…”

Myuri không thể biến thành sói dễ dàng như mẹ cô bé. Hơn nữa, Col vừa nhận ra cô bé thực sự rất nhạy cảm về nguồn gốc sói của mình, chứ không hề vô tư như vẻ bề ngoài.

Cậu không muốn ép cô bé làm điều gì khiến em ấy phải khó xử.

Khi cậu còn đang nghĩ ngợi, Myuri vòng tay ra sau lưng, bước lên vài bước, rồi đột ngột quay ngoắt lại, dí sát mặt vào cậu.

“Vâng. Đúng là biến hình thành sói khó thật, mà em biết đâu cũng gặp rắc rối nữa,” cô bé nói với nụ cười nhẹ, rồi quay đầu sang hướng khác.

Cậu có thể thấy đôi má của cô bé ửng đỏ vì cái lạnh.

“Em nghĩ vẫn có cách để giúp em dũng cảm hơn đấy.”

Giọng nói chứa đầy hàm ý, ánh mắt thì mong chờ. Khi cậu lùi lại một bước, Myuri liền chỉ tay vào má mình, như thể muốn nhấn mạnh yêu cầu.

Mọi thứ đều có cái giá của nó, và Myuri dường như đang rất thích thú trước vẻ lúng túng của Col.

Thế nhưng, đây không phải là lúc để đùa cợt.

“…Việc đó nguy hiểm lắm. Ta nghĩ cách khác đi.”

“Gì cơ? Aww, thôi nào anh trai!”

Myuri vùng vằng tỏ vẻ thất vọng không giấu giếm.

“Nếu ai đó thấy em thì rắc rối to đấy. Một khi tin đồn về việc có sói xuất hiện trên đảo lan ra, mọi người sẽ hoảng loạn mất.”

“Blè!”

Cô bé phụng phịu phồng má, rồi đá mạnh vào lớp tuyết dưới chân.

Nếu được, phương án an toàn hơn cả là tìm cách moi thông tin thông qua Yosef.

Khi Col còn đang cân nhắc, đầu Myuri bỗng ngẩng phắt lên.

Tựa như một con thú vừa nghe thấy bước chân con mồi trên đồng tuyết, cô bé liền đứng thẳng người dậy.

“Có chuyện gì sao?”

“Em nghe tiếng bước chân.”

“Bước chân?”

Myuri vén nhẹ chiếc mũ trùm, để lộ đôi tai sói bên dưới đang động đậy.

“Có nhiều người đi cùng nhau. Em nghĩ họ đang đến nhà thờ, đi trên con đường lớn.”

“Người trong làng đến nhà thờ... tức là đàm phán bắt đầu rồi.”

Thương nhân vốn xem thời gian là vàng bạc. Mà lần này, những thương nhân ấy còn đang chạy đua với Vương quốc Winfiel, nên thời gian càng quý giá hơn bao giờ hết.

Myuri chăm chú lắng nghe thêm một lúc rồi kéo mũ trùm xuống lại. Không lâu sau, Col cũng nghe thấy tiếng chân giẫm lên tuyết, nhưng chỉ của một người. Âm thanh lạo xạo vang lên gần phía trước nhà, rồi cánh cửa mở ra, đóng lại.

“Là cái người tròn tròn kìa.”

“…Là ông Yosef.”

Myuri hiếm khi gọi tên người khác, y như mẹ cô bé là Holo vậy.

Col và Myuri vòng ra trước, bước vào nhà và thấy Yosef đang nói chuyện với hai người phụ nữ đang nấu ăn.

“Nhưng mà dì ơi, cuộc họp vừa rồi quyết như vậy rồi mà.”

“Heh-heh. Dù nghèo nhưng hiếu khách là cái nết của người Caeson chúng ta. Nếu bỏ rơi khách, tổ tiên dưới đáy biển cũng không tha đâu.”

Trong lúc ông ta tranh luận cùng bà lão, người vợ trông thấy Col và Myuri và quay sang gọi Yosef và bà lão.

“Ôi, ngài Col.”

“Có chuyện gì sao ạ?”

“À thì, chuyện là…”

Yosef nhăn mặt, trông có vẻ khó xử.

“Đức Tổng Giám mục muốn tổ chức tiệc hữu nghị và mời hết các vị chức sắc trên đảo, nhưng lại không đủ người phục vụ. Nên bọn tôi đang nhờ phụ nữ trong làng giúp, chỉ là…”

Nhà thờ đúng là vẫn cho phép phụ nữ trú ngụ, nhưng đi kèm là rất nhiều quy định nghiêm ngặt. Chưa kể, cũng chẳng có nhiều người rảnh rỗi lại hứng thú dấn thân ra vùng biên viễn như nơi này. Col đang suy nghĩ thì chợt thấy có ánh mắt nhìn chằm chằm vào mình. Cậu quay sang nhìn, thấy ánh mắt Myuri sáng rỡ. Cậu đúng là thất bại với vai trò người anh, bởi đến giờ vẫn không thể hiểu nổi cô bé, người luôn mê mẩn những câu chuyện phiêu lưu kỳ thú, đang nghĩ gì trong đầu.

“Không, không. Khách đang ở nhà ta nên ta phải lo cho họ trước. Họ là tôi tớ của Chúa mà! Bỏ mặc họ thì chẳng thể ăn nói gì với Đức Mẹ Đen đâu.” Bà lão khăng khăng từ chối, tay vẫn cầm một củ cà rốt gầy tong.

Người vợ không biết phải đứng về phe nào, còn Yosef thì trông khổ sở.

Đang khi hai bên đứng nhìn nhau, Myuri vòng tay ra sau lưng Col khẽ kéo gấu áo cậu.

Anh biết phải làm gì rồi chứ.

Đây có thể chính là cơ hội họ đang chờ, và kế hoạch Myuri nghĩ ra còn là một phương án hay hơn nhiều so với việc biến thành sói để lẻn vào.

Cậu chỉ ngập ngừng trong mấy giây.

“Có chuyện này tôi muốn nói với ông.”

“Ồ!”

Col lên tiếng gọi Yosef đang bối rối.

“Nếu có thể, chúng tôi muốn biết mục đích chuyến viếng thăm này càng sớm càng tốt để quay về Atiph.”

Myuri khẽ thúc nhẹ lưng cậu, như đẩy cậu tiến lên.

Người đàn ông hiểu chuyện khẽ gật đầu.

“Ra vậy. Được rồi. Tôi sẽ báo rằng sẽ có bốn người từ nhà tôi đến. Thế có ổn không, dì?”

“Ổn gì cơ?” Bà lão hỏi lại đầy nghi hoặc, và Yosef liền đáp.

“Chúng ta cùng đến nhà thờ. Như vậy thì chẳng còn khách nào để tiếp ở nhà nữa.”

“Hửm? Chẳng lẽ họ sẽ ngủ ở nhà thờ à?”

Bà lão nhìn họ, nét thất vọng hiện rõ trên mặt. Nhưng bốn người?

Nhà thờ đang kêu gọi phụ nữ hỗ trợ. Bà lão, người vợ, Myuri… Cậu đếm từng người và rồi chợt nhận ra ông ta đang ám chỉ điều gì.

“À, ờ—”

“Chà, anh nên đi đấy.”

Chính Myuri buột miệng như thế. Col quay sang, bắt gặp trên mặt cô bé là một nụ cười tinh quái.

Col không thể để chuyện đó xảy ra. Cậu vội vã tìm cớ.

“Cha Reicher và đám lính canh đã nhìn rõ mặt anh rồi. Anh sẽ gây chú ý, cho dù có cải trang thế nào đi nữa.”

Lý lẽ của cậu chỉ khiến vai Yosef rung lên vì cười. Có vẻ ông đang đùa.

“Xin thứ lỗi.”

Cậu buông vai xuống trong thất vọng, Yosef tiếp tục nói:

“Ngài Col và tôi sẽ ở lại trên tàu. Như vậy có thể ứng cứu nếu có chuyện khẩn cấp, hơn nữa trên tàu còn nhiều rượu mạnh.”

“Cảm ơn ông nhiều lắm.”

Yosef gật đầu, rồi quay sang dặn dò bà lão và người vợ đôi điều trước khi đi ra ngoài.

Myuri thở dài, trông đầy thất vọng.

“Em suýt thì được rồi.”

“Chuyện đó không vui đâu.”

“Em luôn muốn có một chị gái đó.”

Có đáp lại cũng vô ích, nên cậu chỉ có thể thở dài, còn Myuri nhún vai mỉm cười.

“Được rồi, để tôi đi chuẩn bị quần áo cho. Ăn mặc thế này trông đâu giống thiếu nữ trên đảo.” người vợ đẫy đà gọi với sang bằng một nụ cười khô khan.

Trong khi đó, bà lão đã bắt đầu gom xoong nồi và các đồ dùng nấu nướng khác, buộc chúng lại bằng dây rơm. Tuy người nhỏ, lưng còng, bà vẫn thoăn thoắt, khéo léo. Rõ ràng bà từng là người lao động chăm chỉ hồi trẻ.

“Vâng ạ!” Myuri hồ hởi đáp, bước về phía chiếc rương.

Cô bé lanh lợi, chắc chắn có thể đóng vai một người hầu, trong lúc tìm cơ hội đến gần tổng giám mục và đoàn tùy tùng để nghe họ bàn chuyện. Ngay cả khi Reicher có hỏi, cô bé vẫn có thể lấy lý do là đang giúp việc.

“Ừm, cái này chắc sẽ hợp với cô bé đây.”

Người vợ lôi hết thứ này đến thứ kia trong đống rương chất ở góc nhà, cuối cùng lấy ra một gói đồ được bọc kín. Myuri cũng nhìn theo đầy thích thú, muốn biết mình sẽ mặc gì. Có vẻ bộ đồ đã nằm trong rương từ lâu, bụi bám đầy khiến người vợ ho sặc, làm Myuri bật cười.

Col ngồi bên bếp lửa nhìn cảnh đó, nhưng có gì đó cứ gờn gợn.

Cậu chưa xác định được, nhưng khi nhận ra, cậu hiểu đó là về cấu trúc gia đình này.

Bà lão, con trai bà, vợ con trai, rồi đến đứa cháu trai. Đàn ông đều đã đi Atiph làm việc, thành ra cả nhà chỉ còn phụ nữ. Vậy mà sao lại có quần áo cho một cô bé?

Người vợ mở gói đồ ra, đó là một bộ đồ đơn giản nhưng trông đầy ấm áp. Myuri ướm thử lên người, vừa khít một cách kỳ lạ. Kiểu may khiến nó trông trẻ con, rõ ràng không phải đồ của một người vợ hay bà lão.

Người vợ nhìn Myuri thay đồ, nụ cười hiền hiện trên môi, còn chấm chấm khóe mắt.

“Tôi chỉ không nỡ vứt đi thôi. Ai ngờ có ngày nó lại có ích.” cô ấy khẽ thở dài.

Nghe giọng nói ấy, Col nhận ra chủ nhân của bộ đồ này đã không còn nữa. Myuri cũng nhận ra, và sắc mặt cô bé tái đi.

“…Bị bệnh ạ?”

“Ừ. Nó vốn khỏe mạnh, chăm chỉ lắm. Là đứa trẻ kiểu gì cũng cười, dù có rơi xuống biển giữa mùa đông đi nữa.”

“Vậy ạ? Em và chị ấy mặc chung cỡ, chắc là có nhiều điểm giống nhau hơn em nghĩ.”

“Ôi trời.”

Người vợ lúc đầu sửng sốt trước lời Myuri, nhưng ngay sau đó lại nở nụ cười hạnh phúc.

“Tay áo có hơi dài một chút, nhưng chiều dài thì hoàn hảo. Thật sự cảm ơn vì cháu đã mặc nó.”

“Tay áo thế này vẫn ổn mà. Đúng không, anh?”

Myuri thay đồ xong xoay một vòng, tà váy khẽ bay.

Bộ đồ màu nhạt, nhuộm bằng thuốc từ thực vật, hơi đơn sơ với một cô bé, nhưng lại rất hợp với Myuri. Gần như có cảm giác nếu Myuri mặc như vậy hằng ngày, cô bé sẽ trở nên dịu dàng, nữ tính hơn.

“Ừ.” cậu gật đầu đồng tình, nhưng người vợ dường như vẫn bận tâm về tay áo.

Cô ấy đi lấy kim, nhanh nhẹn khâu lại. Hoặc cũng có thể cô ấy chỉ muốn nâng niu vị khách nhỏ của mình.

“Đã… năm năm từ ngày nó rời chúng tôi. Thời gian trôi nhanh thật.”

Myuri ngồi ngoan để cô ấy khâu áo.

Bà lão thì đã đi ngay đến nhà thờ sau khi cất xong nồi niêu xoong chảo.

Tiếng lửa lách tách trong bếp nghe như vang hơn thường lệ.

“Hôm đó cũng như hôm nay vậy.” 

Cô ấy đo tay áo khi Myuri giơ tay lên. Có vẻ vừa khít. Cô ấy gật đầu hài lòng rồi làm nốt bên kia.

“Nó đến đột ngột lắm. Hôm đó chúng tôi vẫn ăn uống bình thường, rồi chuẩn bị đi ngủ.”

Khâu xong bên còn lại, cũng vừa như in.

Myuri không nói lời cảm ơn nào, chỉ im lặng nhìn cô ấy.

Người vợ vẫn mỉm cười kể kỷ niệm, lại chấm khóe mắt lần nữa. Cô ấy khịt khịt mũi, Myuri tự nhiên đặt tay lên vai cô. Ban đầu cô ấy hơi ngạc nhiên, rồi cảm ơn và đặt tay mình lên tay Myuri.

Quá rõ chuyện gì đã xảy ra với con gái cô ấy.

Cậu đã biết những chuyện như vậy là thường xuyên nơi này.

“Nó chắc giờ đang cố gắng làm việc ở một thành phố xa xôi. Chỉ cần biết vậy cũng đủ khiến chị hạnh phúc rồi.”

Cô con gái đã bị bán làm nô lệ.

Và hẳn là người vợ này cũng từng oằn mình trong nỗi đau ấy. Tựa như một mũi tên xuyên vào đầu, Col bỗng lóe lên một ý nghĩ.

Dĩ nhiên, đó là lý do cậu không nhận ra sớm hơn.

Không phải vì đảo có đủ hàng hóa cho lượng tiền công ty lớn kia đổ đến.

Mà bởi vì việc đó vừa giải quyết được vấn đề của đảo, vừa giải quyết được vấn đề của công ty.

Hàng hóa thường thì bán xong là hết chuyện. Nhưng nô lệ lại khác.

Gia đình vẫn lo cho người thân dù đã bị đưa đi xa và vẫn cầu nguyện cho họ được bình an.

Vì vậy, bằng cách mua nô lệ, Liên minh Ruvik chẳng khác nào đang nắm người dân trên đảo làm con tin. Bởi nếu dân đảo làm phật ý bọn buôn nô lệ, thì bạn bè, người thân của người đã bị bán đi có thể sẽ gặp kết cục khủng khiếp.

Ngược lại, việc bỏ ra núi vàng để mua người lao động, thậm chí cả thương nhân trên đảo, cũng đáng giá.

Nếu quả thực là như vậy, thì vị tổng giám mục đóng vai trò gì trong chuyện này?

Một vị đắng lan trong miệng khi Col cảm thấy buồn nôn, thứ chua chát từ bên trong trào lên.

Có lẽ vị tổng giám mục đã nghe tin về Autumn, biết rằng các hòn đảo này có đức tin rất nghiêm túc. Vì thế ông ta tới đây, nhân danh một tổng giám mục để chứng thực toàn bộ quá trình, nhằm đảm bảo việc mua nô lệ được suôn sẻ—đồng thời giữ họ làm con tin.

Thương nhân có được hàng, dân đảo có được tiền, còn tổng giám mục thì nắm được quyền lực ngay trước thềm chiến tranh.

Thật thông minh—quả là một mũi tên trúng ba đích. Ai nghĩ ra chuyện này đúng là kẻ thiên tài gian ác.

Cậu thấy buồn nôn vì đó chỉ toàn là logic của kẻ mạnh—trần trụi, không một chút xót thương. Sự ngạo mạn của giới cầm quyền quá rõ: Cho họ tiền là họ hài lòng chứ gì?

Giáo hội vốn dĩ phải là ngôi nhà bình yên cho dân chúng, vậy mà nay đã sa ngã đến mức không thể cứu vãn.

Điều đó trở nên rõ ràng với Col sau khi cậu trông thấy tổng giám mục ngồi trên kiệu. Cái cách ông ta cư xử chẳng khác nào một vị vua.

Chuyện này không thể tha thứ. Không thể làm ngơ.

Không chỉ vì Vương quốc Winfiel.

Ngay cả vượt lên trên việc phơi bày giáo lý, nó còn đi ngược lại chính lương tâm của cậu.

“Nếu chị ấy đang sống ở một thị trấn xa xôi, bọn cháu sẽ báo cho chị biết nếu có dịp gặp.” Myuri nói với người vợ, khi cô ấy vẫn vừa lau nước mắt vừa liên tục cảm ơn.

Bị bán làm nô lệ và tự nguyện ra đi là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Ngàn lời hoa mỹ cũng không thể biện minh cho một việc gieo bao bất hạnh vào gia đình như thế này, hay như gia đình người ngư dân bên bờ biển hôm trước.

Thế thì vậy phải làm gì đây? cậu nghĩ, và điều đầu tiên hiện lên trong đầu chính là Autumn.

Bởi ông là người duy nhất chịu trách nhiệm cho đức tin trên các đảo, họ chỉ còn cách thuyết phục ông mới có hy vọng thực tế ngăn chặn kế hoạch ghê tởm này. Khi cậu đi đến kết luận đó, Yosef trở về.

“Ôi trời, lạnh quá. Tuyết còn rơi dày hơn nữa rồi.”

Người vợ chợt ngượng ngùng khi thấy ông trở lại. Cô ấy vội buông Myuri ra, nở nụ cười trấn an.

“Ôi chao, em già mất rồi.”

“Cháu thấy cô vẫn còn trẻ mà!”

Yosef nhìn hai người đã thân nhau nhanh chóng, ánh mắt như hơi ngỡ ngàng.

Col tiến lại gần.

“Ông Yosef, tôi có chuyện muốn hỏi.”

“Ồ? Chuyện gì vậy?”

“Hồi trước ông nói là có thể cho thuyền ra khơi ngay lập tức nhỉ.”

Một nét căng thẳng hiện lên trên khuôn mặt đầy râu của người đàn ông.

“Đúng vậy. Có chuyện gì à?”

“Tôi muốn gặp Thầy Autumn.”

Cậu phải phản bác ý định của tổng giám mục. Kế hoạch này sẽ giáng một đòn nặng nề vào Vương quốc Winfiel nếu nó thành công, nên khi vương quốc nắm được tình hình, chắc chắn họ sẽ tìm ra đề nghị khác. Đề nghị ấy sẽ không tệ hại như việc mua một lượng lớn nô lệ. Một khi có giải pháp khả thi, Autumn sẽ dễ tiếp nhận hơn những gì họ nói.

 

Cậu nhớ đến sự cô độc của Autumn trên bãi biển xám hôm ấy. Ông mang một khí chất khiến người ta cảm thấy ông sẽ đưa ra những quyết định hủy diệt trong chớp mắt, dù đáng lẽ ông phải tìm kiếm sự cứu rỗi.

Sau khi tổng giám mục chất đầy nô lệ lên thuyền, còn lại gì trên hòn đảo này ngoài bất hạnh?

“Tôi có nhiệm vụ của mình, và tôi phải nói chuyện với Thầy Autumn.”

“Cái đó… Thôi, tôi không hỏi đâu. Ngài là người mà Ngài Stefan đích thân viết thư về. Nhưng không cần cho thuyền ra đâu.”

“Hả?”

“Ngài Autumn đã ở trong nhà thờ rồi. Đức Tổng Giám mục và các vị kia hẳn đã ghé tu viện trước khi vào cảng.”

Một cảm giác khiến đầu gối Col như mất sức tràn tới. Họ đã chuẩn bị sẵn sàng.

Nhưng điều đó không có nghĩa mọi chuyện đã định đoạt.

Họ vẫn còn một con đường.

“Ra vậy.”

Cậu hít một hơi thật sâu, rồi đưa mắt nhìn về góc phòng.

“Myuri.”

Cô bé tinh nghịch với mái tóc bạc được người vợ tết thành hai bím nhìn sang, trông như một chú cún con.

“Anh có việc muốn nhờ em đây.”

~~~

Trên đường đến nhà thờ, họ nhập cùng đoàn những người phụ nữ khác, ai cũng gùi nồi niêu xoong chảo và lỉnh kỉnh thức ăn trên lưng. Có vẻ họ không chỉ được trả công vì việc nấu nướng mà còn có thể dùng khoản tiền hào phóng ấy để tự mua nguyên liệu, nên Col nghe thấy rõ ràng tiếng trò chuyện rôm rả đầy hứng khởi vang lên khắp đoàn người.

Dù trời đã tối, tuyết vẫn cuộn xoáy trong gió, mặt đất trơn trượt, nhưng các bà các cô vẫn bước đi nhẹ tênh, không mấy để tâm tới nơi mình đặt chân.

Chỉ có nhà thờ là hiện lên lờ mờ trong bóng tối, có lẽ vì lửa đã được nhóm lớn trong sân.

“Chuyện này thực sự ổn chứ?”

Col cúi thấp giọng nhất có thể hỏi, và Myuri, đeo sau lưng một lưỡi rìu nhỏ bọc trong vải, mỉm cười nghịch ngợm nhìn cậu.

“Ổn mààà. Anh nhìn xem, cũng có khối người cao như anh đấy thôi.”

Quả thật, những người phụ nữ đi cùng trên con đường tuyết đều là dạng có thể thắng cậu trong bất cứ cuộc thi sức mạnh nào.

“Nhưng em hơi buồn một chút.”

“Về chuyện gì?”

Myuri vừa phủi tuyết trên mũ trùm đầu vừa nói:

“Cuối cùng em cũng có chị gái, vậy mà chị ấy lại chẳng mấy khi cười.”

“…”

Lời nói đùa của Yosef đã trở thành sự thật, và tuy Myuri trông có vẻ vui vẻ chạy nhảy tung tăng, nhưng vẫn có điều gì đó gượng gạo trong cô bé. Có lẽ đó là cách cô bé quan tâm đến Col theo cách riêng của mình.

Col đã kể cho Myuri nghe điều cậu nhận ra về âm mưu của vị tổng giám mục, cũng như kế hoạch hành động tiếp theo. Dù hơi phát bực vì cái tính bướng bỉnh ấy, Myuri vẫn lấy lược ra và mỉm cười với cậu.

Thậm chí cô bé còn dặn nếu cậu đi lạc thì cứ gọi tên cô bé, rồi cô bé sẽ tìm thấy cậu.

“Nếu kế hoạch thành công, anh sẽ cười cho em xem cả ngày luôn.”

“Thật không? Vậy thì anh có chịu dành trọn một ngày lang thang khắp thị trấn Atiph trong bộ đồ này không?”

Cô bé đã xõa tóc cậu ra, chải mượt, rồi bôi chút dầu mang từ Nyohhira. Sau đó dùng hỗn hợp phấn sò và bột kẽm để dặm lại làn da khô ráp của cậu.

Cậu mặc bộ đồ mượn từ người vợ, thêm găng tay và khăn trùm. Hoàn hảo.

“Anh sẽ cân nhắc…” Col đáp lại với một nụ cười méo xệch, và Myuri cũng mỉm cười theo.

Không khí quanh nhà thờ tựa như một ngày hội. Hoặc cũng có thể là nơi trú ẩn trong lâu đài khi chiến sự xảy đến.

Không có kiểm tra gì nghiêm ngặt ở cổng, nhưng viên lính gác quả nhiên đã nhận ra Col ngay lập tức.

Lúc đó, người vợ thì thầm điều gì đó với anh ta. Hai người trao đổi vài lời, rồi lính gác mím môi lại và hơi lùi về sau; chắc chắn là đang nợ ơn gì đó. Dù sao thì đảo này cũng nhỏ mà.

Khi được cho qua, Col cúi đầu xin lỗi. Nhưng Myuri thì lại tung váy nhẹ bước qua, mỉm cười rạng rỡ với lính gác.

“Thấy chưa, ăn mặc thế này có lợi lắm đấy nhé?”

Lính gác chỉ biết cười khổ rồi nhún vai.

Qua khỏi cổng, họ thấy một đống lửa lớn được nhóm trong sân – sáng như ban ngày. Có vẻ gian bếp trong nhà thờ không đủ để nấu nướng cho từng ấy người, nên có nồi niêu bắc lên lửa ở khắp nơi. Rõ ràng là Liên minh Ruvik đã chuẩn bị trước củi lửa cho việc này, và mùi gỗ cháy lan tỏa khiến người ta thấy ấm lòng.

“Những món nấu xong rồi, xin mời đem vào bên trong!”

Mấy vị linh mục phụ tá trông rệu rã đi qua đi lại giữa các nồi canh sôi ùng ục và vỉ nướng đang bốc khói.

Dù vậy, họ vẫn tỏ ra khá thành thạo, có lẽ trong mùa đánh cá nhộn nhịp nhất cũng từng bận rộn như thế này.

Mọi người xung quanh dường như đều quen biết nhau cả, nhưng vì bên trong nhà thờ giống như một thế giới khác biệt trong chính quê hương mình, nên chẳng ai nhận ra hai kẻ lạ mặt đang trà trộn vào.

“Thấy chưa? Chẳng ai phát hiện cả.”

Myuri lên giọng đầy tự hào, Col chỉ biết nhún vai rồi hạ hành lý khỏi lưng.

Giờ họ cần xác định nơi ở của Autumn. Trong sân nhà thờ lúc này toàn là phụ nữ đang nấu ăn và đàn ông vừa trải qua hành trình dài trên biển đang đói bụng.

Col có thể đi loanh quanh ở đây mà không gây nghi ngờ, nhưng vào trong tòa nhà thì lại là chuyện khác.

Vừa nghĩ giá như có công cụ gì đó thì cậu nhận ra Myuri đã biến mất khỏi bên cạnh cậu.

Cậu hốt hoảng nhìn quanh thì có ai đó chọc nhẹ vào lưng.

“Chị ơi?”

Myuri đứng đó, tay cầm một cái giỏ tre, bên trong là hai con tôm lớn luộc đỏ au, còn bốc khói nghi ngút.

“Chúng ta cứ mang cái này vào và nói, Xin chào, bọn cháu đem đặc sản tôm hùm của làng tới tặng Ngài Râu Xồm, đúng không?”

Cô bé vốn rất mê chơi khăm, và độ dẻo mồm khi nói dối có khi còn hơn cả mẹ, người từng được mệnh danh là sói thông thái.

Col biết ơn nhận lấy giỏ và bước đi, Myuri đi sát bên.

“Chị gái, nói nhỏ vậy thì ai mà tránh đường cho được?”

Cô bé nháy mắt tinh quái.

“Kia là tòa nhà náo nhiệt nhất đó.”

Tòa nhà mà cô bé chỉ vào chính là nơi họ từng gặp Reicher lần đầu tiên. Có vẻ bên trong là hội trường lớn và bếp lửa—hoàn hảo cho một buổi yến tiệc.

Thật kỳ lạ khi Col lại băn khoăn không biết Reicher lúc này có đang vui vẻ uống rượu không. Nhưng khi tưởng tượng đến cảm giác đau khổ mà vị linh mục ấy sẽ phải chịu đựng nếu biết được âm mưu của tổng giám mục, ngực cậu chợt thắt lại. Trước cửa tòa nhà có một hiệp sĩ trẻ của Giáo hội đang bước tại chỗ để giữ ấm. chứng tỏ nơi đây hẳn là nơi tập trung các nhân vật cấp cao. Myuri chạy đến gần chàng hiệp sĩ đang mơ màng nhìn ra sân nơi lửa đang cháy.

“Xin thứ lỗi, bọn em được dặn mang tôm đặc sản của làng đến.”

“Tôm hả? Ồ, trông ngon đấy.”

“Bọn em được nhờ đem biếu ngài Autumn để tạ lễ. Không biết ngài ấy đang ở đâu ạ?”

“Autumn… Ờ, xin lỗi, ta không rõ là ai.”

“Một ông thầy tu già với bộ râu siêu rậm ấy.”

“À, ông ấy vào nhà nguyện rồi. Có vẻ mùi thịt nướng khiến ông ấy khó chịu. Chắc hẳn là người tu hành ghê gớm lắm, suốt ngày khổ hạnh, nên ta chắc ông ấy sẽ thích tôm lắm đấy.”

Có vẻ tiệc vẫn chưa chính thức bắt đầu.

Vừa khi họ định chạy đi đến nhà nguyện thì người hiệp sẽ đã ngăn họ lại.

“Khoan đã.”

Giọng người hiệp sĩ đột nhiên trầm xuống. Thanh kiếm ở hông anh ta va nhẹ một tiếng keng.

Myuri và Col liếc nhìn nhau, lưng quay lại về phía hiệp sĩ.

Họ bị lộ rồi sao?

Trong tình huống như vậy, Myuri thường là người phản ứng nhanh hơn. Cô bé xoay người lại.

“Vâng ạ?”

“Người phụ nữ kia.”

Anh ta phớt lờ Myuri, nhìn thẳng vào Col mà nói.

Ngay khoảnh khắc đó, Myuri mím môi, đưa tay ôm ngực.

Nếu cậu đã cải trang thành con gái để lẻn vào, thì bị nghi làm gián điệp cũng chẳng có gì lạ.

Nơi đây là một hòn đảo nhỏ giữa biển lạnh, chẳng có ai đến giúp họ cả.

Ngay khoảnh khắc ấy, khi Myuri định rút túi bột lúa mạch ra.

“Ta có chuyện muốn nhờ.”

Cái Hả? suýt nữa thì bật ra khỏi miệng cậu. Col kịp ho khan một tiếng rồi liếc nhìn sang Myuri.

“Chị gái em bị bệnh, nói năng không được rõ. Anh cần gì ạ?”

“À, ừm. Ờ, thì…”

Vị hiệp sĩ nhìn quanh rồi ghé sát lại, gương mặt thoáng nét bối rối.

“Có thể cho tôi một chút thứ đó được không? Làm ơn đi? Dù chỉ là cái chân cũng được.”

Một hiệp sĩ của Giáo hội mà phải hạ mình xin đồ ăn, thật chẳng xứng với phẩm giá.

Nhưng chẳng ai có thể thắng nổi cái lạnh căm và bụng đói cồn cào.

Col và Myuri lại liếc nhìn nhau, rồi cô bé thò tay vào giỏ, đưa cho anh hiệp sĩ một con tôm to nguyên vẹn.

“‘Hãy cho đi tất cả những gì ta có thể.’”

Dù có vẻ ngoài như chẳng bao giờ chịu nghe những lời giáo huấn của cậu, nhưng hóa ra cô bé vẫn luôn lắng nghe.

“Món này mà nguội thì uổng lắm, bọn em xin phép đi trước.”

Myuri đẩy lưng Col rồi bước đi. Vị hiệp sĩ nhìn theo cả hai rồi lại nhìn con tôm trong tay, cuối cùng cũng nở một nụ cười dịu dàng. Những kẻ hưởng thụ xa hoa, đắm mình trong lý lẽ của kẻ quyền thế chỉ là những bề trên. Còn người ở dưới như anh ta cũng chỉ là kẻ đơn sơ, chịu đói chịu rét như bao dân thường khác trên đời.

Nếu lật đổ được âm mưu của tổng giám mục, thì sẽ cứu được những người như anh ấy.

Một quyết tâm mới trào dâng trong lòng Col khi vị hiệp sĩ vẫy tay chào hai người. Col cũng không kìm được mà vẫy tay lại với người đàn ông vừa vui vẻ lại vừa có chút bẽn lẽn.

Myuri bật cười khúc khích, còn Col thì như được kéo về với chính mình.

“Chị gái này tốt bụng ghê.”

Cô bé rõ ràng mong cậu sẽ nổi đóa lên, nhưng Col không nói gì.

Nhà nguyện nằm sát thư viện, trước khu vườn nay đã treo đầy cá khô.

Vào lúc mọi người đang hát ca, tiệc tùng vui vẻ như thế này thì chẳng ai muốn lui tới một nơi khổ hạnh và lặng thinh như thế.

Khi họ mở cửa bước vào nhà nguyện, luồng không khí bên trong còn lạnh hơn cả ngoài trời.

“…Ông ta ở đây.”

Myuri khẽ ngửi, đôi tai sói cựa nhẹ, rồi thì thầm như tiếng tuyết rơi. Col khẽ gật đầu, bước vào rồi đóng cửa lại. Trong khoảnh khắc, bóng tối bao trùm. Nhưng khi mắt đã quen dần, cậu có thể lờ mờ nhìn thấy cấu trúc bên trong tòa nhà.

Cả hai đi qua hành lang, leo vài bậc thang ngắn, rồi thấy một cánh cửa mở. Giữa hai hàng ghế dài hướng về bàn thờ là một lối đi trống.

Và ông ấy đây rồi.

Autumn đang ngồi thu mình như một con thú đen kịt.

“Nơi đây là chốn cầu nguyện.”

Giọng ông không lớn, nhưng lọt vào tai Col cứ như đang vang ngay bên cạnh.

Col đưa giỏ tôm cho Myuri giữ rồi mạnh dạn bước lên phía trước.

“Thưa thầy Autumn.”

Autumn không quay lại, nhưng rõ ràng ông đã nhận ra ngay đó là ai, thậm chí còn đoán được lý do đến gặp.

Col dừng lại giữa lối đi, cất lời:

“Con muốn được nói chuyện với thầy.”

“Ta đã bảo nơi này là chốn cầu nguyện kia mà.”

“Con xin lỗi. Xin thầy lượng thứ.”

Autumn không đáp, cũng không quay đầu lại, nhưng ông đã duỗi thẳng tấm lưng từng cong gập.

“Có thể đây chỉ là hiểu lầm của con. Nếu thầy có cười, nổi giận hay quở trách, con xin chấp nhận. Nhưng cũng có khả năng những điều con đoán lại là sự thật đau lòng. Là một kẻ phụng sự Đức Chúa, con buộc phải nói ra.”

Bóng Autumn như to dần, có lẽ là vì ông nổi giận bị quấy rầy khi cầu nguyện, hoặc cũng có thể là ông đang thở dài thật sâu.

Dù sao, ông cũng từ từ quay người lại, đối diện ánh mắt của Col.

“Vị tổng giám mục và thương nhân kia đến đảo là để mua nô lệ. Có đúng không ạ?”

Ánh sáng lờ mờ phản chiếu từ cửa kính trên trần, thứ ánh sáng bị tuyết trắng lọc qua đã giúp cậu thấy rõ vẻ mặt của Autumn.

“Ta cứ tưởng ngươi là một tên gián điệp ngu ngốc.”

Không có chút gì gọi là vui mừng khi phán đoán đúng. Cậu chỉ càng khẳng định rằng có quá nhiều kẻ bất xứng lại đang ngồi ở vị trí quyền lực.

“Vậy thì, thưa thầy Autumn, chắc thầy cũng hiểu điều con muốn nói.”

Col hơi rướn người về phía trước, mong sao lời mình có thể lay động trái tim ông.

Nhưng chẳng sợi râu nào trên khuôn mặt Autumn động đậy. Cứ như đang bị buộc vào lời thề im lặng, ông không nói lấy một lời. Col hiểu rằng vị tu sĩ này vốn đã biết âm mưu của tổng giám mục, và đã đưa ra quyết định từ trước.

Dù biết rõ đó là lựa chọn dẫn đến hủy diệt, đôi mắt vô cảm kia vẫn lạnh lẽo như của một con dê tuyệt vọng.

“Chúa sẽ hiểu lời chúng ta.”

Đó là tất cả những gì ông đáp lại. Với những ai thành tâm cầu nguyện, câu đó càng khiến tim đau nhói hơn.

Col nhân lúc ấy hít một hơi thật sâu, rồi cất lời.

“Nhưng chúng ta đang sống trong cõi phàm. Và lời của con người là đủ.”

“Hmm.”

Lần đầu tiên trong ánh mắt của Autumn thoáng hiện chút cảm xúc.

Điều đó khiến Col thêm vững dạ. Cậu siết chặt nắm tay mình.

“Xin thầy đừng bắt tay với bàn tay nhơ nhuốc của Giáo hội, những kẻ vẫn đang bám víu vào quyền lực thối rữa. Nếu thầy cho Vương quốc Winfiel biết tình cảnh của đảo, họ nhất định sẽ đưa tay giúp đỡ.”

Col chẳng có tư cách hứa hẹn, cũng chẳng có gì đảm bảo.

Nhưng ít nhất, cậu tin vào Hyland. Cậu tin rằng giáo lý thật sự của Chúa vẫn còn tồn tại. Và cậu muốn Autumn cũng tin điều đó.

“Vậy thì được gì?”

Đó là tất cả câu trả lời.

“Nhận lấy bất cứ lòng thương hại nào đều là sai lầm.”

Autumn bắt đầu tiến lại gần. Cảm giác như bóng tối đang bao trùm lấy Col.

“Ta chỉ tin vào sự chở che của Đức Mẹ Đen thôi.”

Người phụ nữ ấy từng hiến thân mình để bảo vệ hòn đảo và có lẽ thậm chí còn không phải con người.

Đó không chỉ là gốc rễ của sự cuồng tín trong ông, mà còn là sự hợp lý hóa cho hành động hi sinh.

Điều đó đồng nghĩa, không có lý do gì để Autumn từ chối cuộc đàm phán với Liên minh Ruvik, những kẻ có cả núi vàng thật sự.

Chọn lấy thứ chắc chắn nắm trong tay là nguyên tắc sống còn của những ai buộc phải tồn tại trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Dù có là sắt nung đỏ, vẫn phải đưa tay mà nắm lấy. Dù thịt cháy, xương phồng, vẫn phải chịu.

“Hãy cầu nguyện,” Autumn buông lời, lướt ngang qua họ rồi rời khỏi nhà nguyện.

Col không thể nào quay lại nhìn theo, càng không thể đuổi theo. Đứng trước nơi thánh đường nghiêm trang này, cậu như hóa đá.

Chúa đang ở đâu? Vì sao Người không hiện ra từ chính bàn thờ ấy?

Dù có trừng trừng nhìn vào lá cờ Giáo hội căng rộng phía trên bàn thờ và mờ nhạt dưới ánh sáng tuyết, cậu cũng chỉ nhận lại sự im lặng.

Col quay người lại, trong lòng chỉ muốn bỏ chạy. Nhưng đôi chân không thể bước tiếp, vì ngay giữa lối đi, Myuri đang đứng đó, tay ôm giỏ tre.

“Anh trai, anh hứa rồi mà.”

Ánh mắt cô bé như dồn cả sức nặng vào tim cậu. Cậu là người tốt, chân thành, nhưng một khi rời khỏi làng suối nước nóng đầy mộng tưởng, thì móng vuốt của hiện thực phũ phàng sẽ cào xé không thương tiếc.

Có lẽ điều Myuri nói là đúng.

Nhưng liệu có công bằng không? Chẳng phải cả Autumn và Myuri đều đang nói rằng để sống sót trong hiện thực lạnh lẽo, con người ta cũng cần có trái tim lạnh lẽo ư? Rằng chỉ cần chấp nhận thực tại bằng cái đầu lạnh, bằng máu lạnh, là đủ?

Chính những lời nói vô tâm như thế đã đẩy biết bao người vào kiếp nô lệ.

Bất chợt, cơn giận trong cậu trào lên cuồn cuộn.

Vẫn còn những điều mà chính cậu có thể làm được.

Cậu có nên thể hiện ra chăng?

“Myuri, em hãy giúp anh.”

“Hả?” cô bé ngơ ngác đáp lại.

Col sải bước lớn, tiến về phía cô bé đang đứng giữa lối đi, nắm lấy đôi vai nhỏ của cô bé.

“Anh, làm gì vậy? Ơ, này, đau đấy!”

Myuri giãy giụa muốn thoát, chiếc giỏ rơi xuống đất, hai con tôm đỏ au lăn lóc.

Vừa lúc cô bé cúi xuống nhìn món ăn bị đổ, với một bên má xoay về phía Col—

“…”

Cậu biết làm thế nào để cô bé chịu hợp tác. Cậu hiểu điều cô bé muốn, và biết cách để khiến cô bé hành động theo ý mình. Khi cảm thấy mình đã trả đũa thành công, Col khẽ rời môi khỏi má cô bé.

“Myuri, hãy trở thành sói, đột nhập vào buổi tiệc, giả vờ là người được Đức Mẹ Đen sai đến. Sau đó, kế hoạch của bọn họ sẽ—”

Cậu chỉ kịp nói đến thế.

Myuri vẫn cúi nhìn nền nhà, nước mắt đã lăn thành những giọt tách khi rơi xuống sàn.

“…”

Không cần lời nào. Ánh mắt cô bé nhìn cậu như thiêu đốt. Trong đôi mắt màu hổ phách ấy là giận dữ, là khinh bỉ.

Chỉ đến lúc đó, Col mới thực sự nhận ra điều cậu vừa làm.

Cậu đã làm tổn thương Myuri.

Thực sự đã khiến cô bé tổn thương sâu sắc.

“M–Myuri… Anh…”

“Đừng chạm vào em!”

Giọng nói của cô bé xé toang trong lòng cậu, khiến bàn tay cứng lại giữa không trung. Myuri khuỵu xuống sàn, mắt nhìn chằm chằm vào hai con tôm—lạnh ngắt, chân gãy rời. Trông chẳng khác nào một thứ quý giá vừa chết đi trước mắt cô bé vậy.

“Anh đối xử tốt với em bấy lâu nay chỉ vì muốn lợi dụng em thôi sao?”

Myuri nhe nanh, móng tay cong lại, khi cậu đứng đó chết lặng.

“Không, không phải thế. Em biết chứ.”

Lời cô bé nói nghe thì nhẹ nhàng, nhưng khóe miệng lại cong lên trong nụ cười khinh miệt. Cô bé khụy xuống, nhặt hai con tôm lên, đặt lại vào giỏ.

Mới khi nãy thôi, chúng vẫn còn trông thật ngon miệng. Giờ đây, chỉ còn là xác chết lạnh tanh.

Myuri đứng dậy, vẫn nhìn chằm chằm vào chiếc giỏ ấy.

Rồi, như thể một sợi dây trong lòng bị đứt phựt, cô bé cất tiếng nói.

“Anh lúc nào cũng tốt với em, ngay cả khi em làm vướng chân anh. Dù em có làm nũng, có bướng đến mấy, anh vẫn dịu dàng. Một người hiền lành như thế không thể nào chống lại được thứ đó đâu.”

Khi cô bé ngẩng lên, Col chưa bao giờ thấy gương mặt Myuri tràn đầy giận dữ đến vậy.

“Nhưng em muốn anh trở nên thật ngầu, nên đã nghĩ có lẽ anh sẽ làm được. Anh ngốc và chẳng bao giờ để ý xung quanh, nhưng sự chân thật của anh lại là sức mạnh. Em đã nghĩ anh có thể đón nhận hòn đảo này, rồi bước tiếp theo cách riêng của mình. Em đã định giúp anh, vì em biết dù có bị cô tóc vàng kia sai khiến đến đâu, anh vẫn sẽ cố gắng hết sức. Nhưng mà—”

Cô bé sụt sịt, rồi dùng cánh tay lau nước mắt thật mạnh. Không còn là cô bé lúc nào cũng dính vụn bánh mì quanh miệng, phải để anh trai trông chừng nữa.

“Anh chỉ biết chạy loanh quanh như kẻ ngốc! Và rồi…anh—anh…”

Nghĩ rằng chỉ cần một cái hôn là cậu có thể khiến Myuri làm theo ý mình thì chẳng khác nào sự ngạo mạn của vị tổng giám mục kia. Không có tình thương, không có lòng trắc ẩn—chỉ có cái tiện lợi cho bản thân.

Myuri sụt sịt thêm lần nữa và nói, “Em về nhà đây. Xin lỗi vì đã làm phiền chuyến đi của anh.”

Cô bé quay phắt đi. Cậu chẳng còn cơ hội để gọi với theo. Nhưng dù có kịp, thì cậu biết phải nói gì đây chứ? Cậu chẳng hiểu gì cả.

Và điều thảm hại nhất là ở tận sâu trong lòng, cậu lại chấp nhận tất cả như thể đó là điều hiển nhiên. Hoặc có lẽ, cậu đang cố lừa dối chính mình, để khỏi nhận ra tội lỗi nặng nề vừa gây ra.

Cậu không thật sự hiểu. Mà chỉ biết rằng mình vừa đánh mất điều gì đó vô cùng quý giá.

Không chỉ là Myuri, dĩ nhiên rồi, mà còn là khát vọng được sống ngay thẳng, được giữ trọn đức tin trong lòng người phụng Chúa.

Dù máu vẫn còn sôi sục trong đầu, cậu lại hành xử thật ích kỷ với cô bé luôn tin tưởng và ngưỡng mộ mình. Trong lòng cậu, chẳng có lấy một tia sáng của đức tin.

Cậu ngoảnh mặt khỏi hướng Myuri biến mất trong bóng tối, ngước nhìn lên lá cờ của Giáo hội. Trước kia, nó từng là biểu tượng mà cậu có thể dựa vào mỗi khi tuyệt vọng, nhưng giờ, nó chỉ phản chiếu cho cậu thấy mình nhỏ bé và yếu đuối đến nhường nào.

Lần đầu tiên trong đời, Col ước mình có thể biến mất.

Rồi cánh cửa khe khẽ mở ra. Có lẽ Myuri vẫn còn quanh đây, hay là cô bé đã đổi ý, quay lại rồi? Một tia hi vọng nhỏ nhoi lóe lên, khiến cơn đau tạm dịu bớt, nhưng những người bước vào lại là mấy tên đàn ông. Họ khoác áo giáp, vài kẻ thì cầm khiên.

Không lâu sau, Col nhận ra lý do vì sao họ không rút kiếm ra là bởi nhà nguyện là nơi không được vung lưỡi thép.

“Thì ra đây là con chuột nhắt của Winfiel.”

Từ giữa đám hiệp sĩ, một người đàn ông béo tốt trong bộ lông đắt tiền bước ra, chính là thương nhân giàu có từng ngồi kiệu.

Hắn ra hiệu, lập tức mấy hiệp sĩ khiên vây kín Col. Không còn lý do gì để phản kháng, và ở bên kia đám đông, cậu nhìn thấy Myuri bị hai hiệp sĩ khác chặn lại, họ không trói cô bé, nhưng vẫn giữ chặt.

Có lẽ Autumn chính là người đã báo tin. Nhưng lạ thay, cậu chẳng cảm thấy tức giận hay tuyệt vọng.

“Nếu ngươi ngoan ngoãn, chúng ta sẽ không làm tổn thương. Mọi việc đều có thể giải quyết trong hòa bình.”

Col không có dòng máu sói như Myuri; cậu chẳng có răng nanh hay móng vuốt để chiến đấu, cũng chẳng có ý định dùng đến chúng. Nếu thực sự phải đổi mạng mình để Myuri được an toàn trở về Nyohhira, cậu sẵn sàng.

Cậu quay lại, và người thương nhân kia gật đầu, ra vẻ hài lòng.

“Tốt, ngươi là người biết điều. Nếu chịu ngoan ngoãn ở lại đây một thời gian, ta sẽ thả ngươi. Dù sao tin tức về cuộc thương lượng cũng sẽ lan ra nhờ môi miệng dân chài. Thả ngươi đi, ngược lại, sẽ cho thấy lòng khoan dung của chúng ta.”

Hai hiệp sĩ nắm chặt hai tay cậu, kéo lên.

Tên thương nhân nhìn Col từ đầu đến chân, rồi khịt mũi khinh bỉ.

“Người Winfiel đúng là nhiều tài. Mang nó đi.” hắn ra lệnh cho tốp hiệp sĩ, rồi quay gót rời khỏi nhà nguyện.

Myuri không nhìn lại cậu, cũng chẳng hề với tay chạm vào túi lúa mạch đeo trên cổ.

Nếu họ chịu buông tha cho cô bé, cậu sẽ thấy mãn nguyện.

Myuri sẽ trở về Nyohhira. Đôi khi, cô bé sẽ lại một mình rời làng, đi đâu đó xa.

Thế rồi còn cậu thì sao?

Giờ cậu phải tin vào điều gì? Sống vì điều gì?

Tuyết rơi ngày một dày hơn.

Một hiệp sĩ khẽ lẩm bẩm, “Sắp thành bão tuyết rồi.”

~~~

Đúng như lời hứa, họ không ngược đãi cậu. Col bị nhốt trong phòng bảo vật bên trong nhà nguyện, nhưng được để lại chăn dày và nước uống đầy đủ. Căn phòng không có cửa sổ, tối đen như mực. Khi cánh cửa khóa lại và tiếng bước chân hiệp sĩ rời đi lặng hẳn, tĩnh lặng phủ lấy tất cả.

Phải đến sáng hôm sau, có lẽ Yosef mới nhận ra có chuyện xảy ra. Khi Col không trở về, ông ấy chắc chắn sẽ đoán được đã có chuyện xảy ra ở nhà thờ. Nhưng dù vậy, Yosef không đủ sức để cứu cậu ra. Muốn rời đảo bằng thuyền cũng không dễ dàng gì.

Trong lúc ấy, tổng giám mục và Autumn sẽ hoàn tất thương thuyết, gom dân từ khắp các đảo rồi đẩy lên con thuyền khổng lồ kia làm nô lệ. Đổi lại, dân đảo sẽ có vàng và đôi chút bình yên tạm bợ.

Nhưng thứ bình yên mà quần đảo có được bằng cách đó có xứng đáng không?

Liệu Autumn có nghĩ đó là điều đúng đắn? Một hình thái khác của đức tin?

Nghĩ đến đó, Col khẽ bật cười. Bao nhiêu lần nghĩ đi nghĩ lại, tất cả vẫn chỉ là một trò giả vờ không hơn.

Myuri lẽ ra phải ở đây, giờ lại chẳng thấy bóng dáng đâu. Cứ như thể cô bé đã tan biến vào bóng tối.

Có khi đây chỉ là một giấc mơ nữa, và cậu đang chìm sâu vào trong đó.

Nhưng đó cũng chỉ là cái cớ để tự thương hại chính mình. Là một cách để trốn tránh tội lỗi mà cậu đã gây ra cho Myuri. Giống như mong được tỉnh dậy và thấy cô bé đang ngồi ở mép giường, chải tóc cho cậu bằng chiếc lược gỗ.

Điều cậu nên làm, là tìm kiếm hình bóng cô bé trong bóng tối này.

Nếu không, có lẽ cậu sẽ chẳng bao giờ được thấy cô bé nữa.

“…”

Nhưng cậu không biết phải gọi tên cô bé ra sao. Trong Thánh Kinh có bao lời của Chúa, mà lúc này lại chẳng có câu nào cậu có thể dùng được.

Cậu muốn vùi mình trong đau đớn. Ôm lấy bóng tối, cậu muốn cứ thế khóc òa, nhưng cuối cùng, nước mắt cũng chẳng rơi.

Không rõ đã trôi qua bao lâu, bỗng cậu nghe tiếng bước chân. Không phải tiếng kim loại, mà là tiếng giày da mềm, lơ đãng và phần nào do dự. Chúng dừng lại giữa chừng, rồi lại quay lại. Nhưng cuối cùng cũng đến gần, và có tiếng chìa khóa tra vào ổ.

“Anh không sao chứ?”

Là Reicher.

“Bọn hiệp sĩ bàn tán gì đó về một mật thám từ vương quốc bị bắt, nên tôi đoán là có lẽ…”

Reicher nói vội vã, liên tục nhìn về phía lối vào nhà nguyện.

“Tôi không biết anh vì lý do gì mà làm việc cho vương quốc. Nhưng nếu anh còn thương tôi một chút, xin hãy nghe lời cầu xin này.”

Col thoáng bối rối vì chính Reicher chứ không ai khác là người mở cánh cửa phòng báu vật, nơi đang đang giam giữ cậu. Vậy thì sao lại là Reicher đang cầu xin cậu? Chẳng phải nên là ngược lại sao?

Nhưng rồi cậu nhận ra thứ Reicher mở ra, không phải là cánh cửa mà là chính trái tim ông.

“Xin hãy báo lại với vương quốc về cuộc thương lượng của tổng giám mục. Tuyết sẽ dày lên, gió nổi mạnh, vài ngày tới chắc chắn không thể ra khơi ở vùng Caeson. Nhưng nếu cho thuyền rời đảo ngay trong đêm, len qua các lối hẹp giữa các đảo, thì gió sẽ bị chắn, và biết đâu lại vượt được về phía nam. Nếu thuận lợi, ngài sẽ có trước họ cả tuần. Có thể tập hợp viện binh, đón đầu ở tuyến hàng hải phía nam.”

Khi Reicher tiếp tục nói, Col thấy được rằng ông ấy cũng đang bám víu lấy những tưởng tượng đầy hy vọng của bản thân.

Thực tại của ông đã quá xấu xí, đến mức rượu cũng không thể làm lu mờ.

“Nên xin hãy cứu những người sắp bị đưa lên tàu.”

Col không dám hy vọng. Nếu thuyền vương quốc tấn công thuyền chở tổng giám mục, đó sẽ là hành động khai chiến. Không phải chuyện có thể làm liều.

Nhưng sự thật là Reicher đã mở lối cho cậu. Và Yosef từng nói ông có thể lo được thuyền. Ở lại thì chẳng thay đổi được gì. Col gật đầu và nắm tay Reicher.

“Hãy đi cùng con. Chúng ta sẽ rời khỏi hòn đảo này.”

Họ giống nhau. Cả hai đều bị bóng đen bất động nơi hòn đảo giữ lại.

Nhưng Reicher chỉ mỉm cười, lắc đầu.

“Nếu tôi đi mất thì rắc rối to đấy. Tôi đã lấy cớ đi vệ sinh để rời khỏi bàn tiệc. Anh đi mau đi.”

Reicher nhìn cậu và nở nụ cười khổ.

“Cả đời tôi chỉ mong có thể cứu ai đó một lần.”

Tim đau nhói, Col ôm lấy ông, vỗ nhẹ lưng vị linh mục.

Khi quay lại, Myuri đang đứng đó, mắt nhìn xuống chân.

“Nguyện Chúa soi sáng cho anh.”

Lời cầu nguyện chẳng hướng về ai, chẳng biết có ích gì không. Nhưng họ rời khỏi nhà kho, hòa vào đám đông nơi yến tiệc.

Reicher biến mất nhanh chóng. Col không gọi ông lại. Cậu hiểu. Đó là bản chất của hành trình.

“Đi thôi.”

Cậu biết cô bé sẽ không đáp, nhưng vẫn nói. Rồi bước đi. Myuri lặng lẽ theo sau. Dù lòng có nặng đến mấy, cô bé cũng phải dùng thuyền của Yosef để quay về Nyohhira.

Họ len qua đám đàn ông say khướt, và những phụ nữ đang nhảy múa giữa hội hè. Đến được cổng, nơi lính gác đang uống rượu một mình, nhìn họ bất ngờ nhưng không nói gì.

Tuyết dưới chân mềm như cát, trơn trượt. Cứ như thể bông tuyết đang giễu cợt bước chân vội vã của họ. Hơi thở Col dồn dập, nhưng lần này cậu không để bị tụt lại phía sau như lúc xuống núi. Họ phải tiếp tục bước. Nếu không, thì sống chẳng còn ích gì nữa. Gạt đi tiếc nuối, gạt cả nỗi buồn, cậu bước mạnh về phía trước.

Cuối cùng họ đến bến cảng, nơi gió rít từng hồi dù đứng yên một chỗ. Tuyết rát buốt như sỏi bay vào mặt. Tiếng sóng gầm vang từ phía biển, dù vậy cậu vẫn nghe được tiếng gỗ cót két từ những con thuyền và cầu cảng. Họ hướng tới nhà họ hàng Yosef, nơi đó ông đang ở bên bếp lửa mà sưởi ấm tay. Trông thấy họ, ánh sáng lóe lên trong đôi mắt mệt mỏi ông.

“Chúng tôi cần thuyền.”

“Để đó cho tôi.”

Đối phương đã không chút chần chừ. Ông đổ rượu vào lửa, làm nó bùng lên như một ngọn hiệu.

Col thay đồ thật nhanh. Cậu thu dọn đồ đạc và cho vào túi đeo lưng. Trong chốc lát cậu định để lại ít bạc, nhưng rồi nghĩ lại vết tích rằng họ có quan hệ sâu xa với người bên ngoài có lẽ chỉ khiến phụ nữ nơi đây gặp rắc rối. Cuối cùng, cậu không để lại gì rồi rời khỏi căn nhà.

Họ đội gió và tuyết mà ra bến tàu, và Yosef vốn rời đi trước họ đang đứng đó trên cầu cảng, vẫy tay gọi. 

Thang lên thuyền đã hạ xuống, và trên boong, ánh sáng lập lòe.

“Khà khà, lại giống khi Giáo hội tấn công năm xưa rồi.” Yosef nói, đẩy họ lên thuyền. Sau đó, ông cũng nhảy lên, rồi rút thang đi. Ông ghé đầu xuống cầu thang dẫn tới khoang dưới, hét lớn:

“Rồi, tụi bây! Cho họ thấy tinh thần dân đảo là thế nào đi!!”

Theo lẽ thường mà Col rút ra được từ những chuyến du hành, ra khơi ban đêm là hành động tự sát. Ngay cả khi khẩn cấp, cũng phải có ánh trăng.

Nhưng không chỉ đêm nay không trăng, mà họ đang ra khơi dưới màn tuyết rơi như điên và gió rít từng cơn. Sóng cao, thuyền chòng chành dù còn neo bến. Sự tự tin của họ không đơn thuần dựa trên sự thật rằng mọi thứ sẽ ổn chỉ vì họ đã quen với vùng biển mà mình sinh sống. Nhờ lòng can đảm ấy, họ là thủy thủ bất khuất.

Col bỗng hiểu vì sao vương quốc và Giáo hội đều xem dân đảo là đồng minh đáng giá. Họ là những kẻ sống sót, là chiến binh đối đầu với biển cả là thực thể với sức mạnh vượt trội. Hệt như luồn qua hàng ngũ kẻ địch dưới cơn mưa tên, việc ra khơi vào ban đêm trên những con sóng trắng không phải việc dễ dàng.

Vàng có thể mua lấy thuyền. 

Nhưng dũng khí thì không.

“Nhổ neo!!” ai đó hô to, và mái chèo trườn ra từ bên dưới.

Chúng đập mạnh vào bến—tất cả dường như cùng nhất tề ra sức đẩy. Con thuyền rời bến, và lần này, chính cầu cảng là thứ phát ra tiếng kẽo kẹt.

Khi thuyền đã ra đủ xa, những mái chèo hai bên đồng loạt nâng lên rồi lại hạ xuống mặt biển. Chuyển động đều đặn ấy khiến con thuyền bắt đầu tiến mạnh hơn, chính thức rời bến.

Trên boong, không có hàng hóa che chắn, họ bị tuyết và gió táp thẳng vào người. Nhưng Col không hề thấy lạnh. Cậu chỉ nhìn về phía Caeson, nơi nhà thờ vẫn sáng rực một góc trời.

Cậu đến đây để làm gì?

Câu hỏi xoáy trong ngực, nghẹn cả hơi thở.

“Nếu bị say sóng thì cứ nôn ra boong nhé.”

Khi con thuyền chợt chao đảo mạnh, Yosef cười nói.

“Nghiêng người ra ngoài là bị hút xuống biển ngay đấy. Mà ban đêm, dưới đó lại có quái vật rình mò.”

Col không cho đó là mê tín; cậu tin thật.

Biển đêm không trăng đen ngòm như ác mộng. Thỉnh thoảng, những đợt sóng trắng lướt qua chỉ khiến hiện thực thêm phần rùng rợn. Con thuyền chao đảo, run rẩy như đứa trẻ nhỏ, thỉnh thoảng lại lắc lên dữ dội. Những cú va đập có thể là sóng, hoặc là sinh vật nào đó đang tìm cách lôi con mồi xuống biển sâu.

Chẳng bao lâu, ánh sáng nhà thờ cũng chỉ còn là một đốm lửa xa mờ.

“Ngài có kịp nói chuyện với ông ta chứ?” Yosef hỏi, trông khá thong thả, như thể chỉ cần đến đây được là mọi việc đều ổn cả.

Không biết từ lúc nào, ông đã có một thùng rượu nhỏ trên tay.

“Ờ, cũng có…”

Col trả lời mơ hồ, giọng nói bị bóng tối nuốt trọn.

“Vậy thì tốt. Vậy là ông chủ Stefan cũng giữ được thể diện rồi.”

Ông cười, đưa cho Col chiếc thùng. Cậu nhấp một ngụm, và nó là thứ rượu chưng cất đắng lét.

“Chỉ cần vượt qua đoạn này, vào mấy kênh hẹp giữa các đảo là gió và sóng sẽ dịu ngay, như có phép vậy. Cứ nhẫn nại là được.”

Reicher cũng từng nói thế.

“Cảm ơn ông nhiều lắm.”

Col thực lòng biết ơn, chỉ mong đến được đoạn ấy thật nhanh.

“Yên tâm đi.” Yosef đáp, ưỡn ngực tự tin.

Mỗi lần thuyền lắc mạnh, ông lại dừng chút, rồi từ từ đi về đuôi thuyền. Col nhìn quanh và thấy Myuri đang ngồi dựa vào cột buồm, quấn chăn, mắt nhắm nghiền. Chỉ cần vài bước là cậu có thể gọi cô bé, nhưng khoảng cách ấy lại như dài vô tận.

Cậu ngoảnh mặt đi, không dám nhìn về phía Myuri nữa, như đang tránh vết thương của chính mình. Nhưng nhìn ra biển chẳng giúp cậu bình tâm hơn. Biển càng ngày càng dữ dội hơn kể từ lúc họ rời cảng và ra ngoài khơi.

Cậu chẳng biết liệu những cơn gió đang mạnh dần là do tốc độ của con thuyền hay là tín hiệu rằng cơn bão tuyết đang rất gần. Sóng sau lưng cuộn dữ dội và biến mất sau lưng họ, hệt như cảnh xuôi dòng sông mùa lũ. Ánh sáng nhà thờ chỉ còn là những vệt lập lòe mơ hồ chẳng phân biệt nổi trong mắt cậu. Tựa như đức tin vậy, cậu nghĩ.

Cứ như phần sâu nhất trong tim đã bị gió cuốn đi, cậu chẳng còn thấy lạnh nữa. Cậu cứ thế lặng im dõi nhìn mặt nước.

Thuyền sẽ tiếp tục xuôi nam, đến Atiph, rồi cậu sẽ báo cáo với Hyland. Col chỉ tưởng tượng được đến đó. Sau nữa thì không.

Cậu không thể trở về Nyohhira. Myuri sẽ không muốn thế. Nhưng ở lại bên Hyland thì lại quá sức. Thứ từng nâng đỡ cậu giờ đã biến mất.

Vì cậu còn chẳng thể tin chính mình.

Tâm trí trống rỗng, cậu chăm chú nhìn những dải bọt sóng khi chúng cuộn lên trên mặt biển. Trông chúng như chim trắng bay trong đêm, hoặc rắn trườn trên mặt nước. Một con sóng lớn đặc biệt hiện ra, Col nghĩ nó giống thiên sứ. Với sải cánh rộng như chuẩn bị bay lên.

Ban đầu cậu thấy mình thật ngớ ngẩn khi nghĩ vậy—nhưng rồi nhận ra có gì đó không ổn. Tuy dáng hình của con sóng ấy mờ dần, nó lại không biến mất. Thay vào đó cái bóng ấy cứ lớn dần, lớn dần.

Không, nó đúng là đang lớn lên.

Không hề có con sóng nào cả.

Là một con tàu!

“Ông Yosef!!”

Cậu gào lên hết mức, nhưng đến lúc ấy cậu mới nhận ra họ đang cưỡi trên một vùng biển hoang dại. Tiếng hét còn chẳng vang nổi đến tai mình, và những mảnh vụn băng rơi xuống mặt cậu đau như bị đá ném.

Con thuyền chao đảo dữ dội, rung bần bật mỗi khi bị sóng vỗ từ dưới.

Col lao đến đuôi thuyền cùng vài thủy thủ khác, cố gắng đứng vững bước chân tới nơi Yosef đang giữ bánh lái. Cậu cố gắng hết sức gào lên.

“Ông Yosef! Có tàu!”

Yosef cau mày— hoặc là vì lạnh, hoặc do tuyết táp vào mắt, hay vì nghĩ cậu đang báo tin vớ vẩn. Nhưng không nhầm lẫn gì cả. Col quay lại nhìn, và chiếc tàu trắng như thiên sứ kia đang tiến đến gần.

“Là tàu! Nó đang lao tới gần rồi!”

Thuyền lại lắc mạnh. Cậu bật khỏi sàn, rồi ngã nhào xuống boong. Lồm cồm bò dậy, cậu thấy Yosef và thủy thủ cũng đang sửng sốt nhìn về hướng đó.

“Cướp biển!” Yosef hét lên, buông bánh lái, lao xuống khoang dưới.

Những mái chèo lập tức tăng nhịp. Nhưng giữa biển đêm mịt mù, chẳng ai biết có nhanh thêm được bao nhiêu. Tàu cướp biển ấy mảnh mai như lưỡi giáo, là một tính năng ưu tiên tốc độ.

Còn thuyền của họ lại là thuyền buôn—bề ngang lớn, nặng nề.

Col nhớ lại lúc Autumn dẫn mình lên con tàu sắc như thanh kiếm ấy.

Nó đang rút ngắn khoảng cách.

Cậu gần như thấy được gương mặt thiên sứ của cái chết.

“Ngài Col!”

Cậu ngoảnh lại. Yosef đang ôm chặt lấy tay Myuri ở chân cột buồm.

Rồi cậu lại chẳng nghe thấy gì nữa.

Theo tay Yosef chỉ, Col nhìn về phía biển.

Nó ở đó—như quái vật trồi lên từ sương mù.

Như con cá dài họ từng ăn ở nhà trọ Caeson, mũi nhọn xé sóng mà lao tới.

Col nhớ lại cuộc trò chuyện đùa với Myuri:

“Những gì sẽ làm là chúng ta đâm sầm vào tàu của kẻ địch, rồi ngậm kiếm trong miệng, hét to một tiếng và nhảy phắt qua thuyền kia, đúng không?”

Cậu từng cười hỏi: “Ngậm kiếm trong miệng rồi thì còn hét kiểu gì nữa?”

Nhưng giờ, mũi nhọn ấy đâm thẳng vào mạn trái tàu, từ dưới lên.

“——”

Không rõ ai hét gọi ai. Hay chính là tiếng thét của cậu.

Khi nhận ra, cậu đã chìm trong bóng tối.

Không phân biệt nổi đâu là trên, đâu là dưới nữa, và tay chân giãy giụa trong vô thức, hoặc chỉ là ảo giác. Mùi dầu gội mà Myuri hay dùng vẫn phảng phất đâu đây, khiến cậu ngỡ như cô bé đang ở gần bên. Có tiếng gọi “Anh ơi!”, xem chừng chỉ là ảo giác sinh ra từ lòng cậu.

Myuri.

Vừa nghĩ đến, một cú va đập cực mạnh xộc đến và cậu không thở được nữa.

Phải đến lúc nổi lên mặt nước, cậu mới nhận ra mình đã rơi xuống biển.

“Khặc, ặc! Khục…”

Cậu ho sặc sụa, rồi toàn thân lại bị một con sóng lớn nhấn chìm.

Nỗi sợ dâng lên bên trong cậu, nhưng không phải vì lạnh, mà vì không thở được.

Cơ thể cậu nặng trĩu như rơi vào bùn, khi quần áo vốn để giữ ấm giờ ngấm nước, kéo cậu chìm xuống.

Cậu cố gắng cử động, chật vật đưa đầu lên khỏi mặt nước, hít một hơi thật sâu. Rồi khi mở mắt, cậu thấy mạn thuyền. Con thuyền chưa bị lật, nhưng vài mái chèo đã biến mất. Có lẽ chúng bị hất xuống khi va chạm.

Ngẩng đầu nhìn lan can trên boong, cậu chợt cười khổ.

Dù cố vươn thế nào, cũng không thể với tới được nữa.

Bị sóng xô đẩy, con thuyền vô tình trôi xa dần. Bốn bề là biển đen mênh mông; cậu đã bị bỏ lại giữa đại dương.

Ngay khi ấy, Col hiểu rằng mình sẽ chết ở đây.

Cái lạnh bắt đầu rút cạn sức lực cậu. Cậu nhớ lời người ta dạy khi còn ở Nyohhira, rằng nếu ai ngã xuống sông giữa mùa đông, phải tìm cách sưởi ấm ngay. Nếu không, sau một trăm nhịp thở, tay chân sẽ tê liệt. Một trăm nhịp tiếp theo, mất ý thức. Và một trăm nhịp cuối cùng là chết. Nếu cậu gặp ai như thế… Cậu không thể nghĩ nổi, vì hiểu chẳng còn cần thiết nữa.

Biển lạnh hơn mọi con sông ở Nyohhira, và chẳng có cách nào để leo lên khỏi mặt nước này.

Còn chưa đến trăm hơi, Col đã chìm xuống nước. Mọi lựa chọn trong đời dần tan biến.

Và khi tất cả biến mất, chỉ còn lại một điều duy nhất.

Một câu ngắn, đơn giản, như một lời hối hận muộn màng:

“Anh xin lỗi.”

Đáng lẽ cậu phải nói điều đó với Myuri, dù cho cô bé có làm ngơ hay xua đuổi.

Chắc đâu đó trong lớp áo nặng nề còn chút khí bị kẹt lại, nên dù không cử động mấy, thân thể cậu vẫn dập dềnh nổi theo sóng như một trò đùa độc ác.

Cậu chỉ mong được chìm hẳn xuống.

Một cảm giác buông xuôi ngọt ngào, êm ái như cơn buồn ngủ len dần khắp thân. Cậu khép mắt lại.

Người ta nói khi chết, con người sẽ mơ.

Có lẽ, giấc mơ của cậu vừa bắt đầu.

“Anh ơi!”

Từ đuôi thuyền xa dần trong tầm mắt, Myuri lao xuống biển.

Cậu nhìn, nghĩ mơ hồ, Áo em sẽ ướt mất thôi.

Tiếng tùm vang lên khi cô bé chạm nước.

Chỉ đến khi thấy đầu Myuri nổi lên và cô bé bắt đầu bơi hối hả về phía mình, Col mới nhận ra đây không phải mơ.

“Anh ơi!!”

“…Myu… Sao… sao…”

Cậu không thể nói trọn lời. Cứ như thể răng đã bị hàn lại với nhau, hàm cậu cứng ngắc. Những chiếc răng nghiến chặt, và cậu chẳng thể há miệng ra. 

Myuri chỉ mặc lớp áo mỏng, đến nỗi cậu muốn thở dài; có lẽ cô đã tháo bỏ lớp áo dày trước khi nhảy xuống.

Cậu muốn nói, Em sẽ bị cảm mất thôi.

“Anh ơi, anh ơi!!”

Đôi tay cô bé chạm vào mặt cậu, ngay khi một con sóng lớn ập tới, nhấn cả hai xuống.

Cậu nổi lên được chỉ có thể là nhờ Myuri đang ôm chặt, cố sức đạp nước.

“V-Vì sao…?”

Vì sao cô bé lại nhảy xuống? Cậu hỏi bằng ánh mắt, và cô bé lắc đầu, nước văng tung tóe như đứa trẻ vừa nghịch hồ.

“Anh quên rồi à?”

Cô ôm chặt lấy cậu. Thân thể cô ấm áp đến mức khiến cậu muốn ngủ.

“Nếu anh rơi xuống biển lạnh lẽo và tối tăm, em nhất định sẽ nhảy xuống theo. Em sẽ không bao giờ để anh một mình. Dưới đáy biển, chỉ cần có anh thì em sẽ vẫn ổn thôi.”

Col nhìn cô bé, khuôn mặt ấy méo mó vì nước và nước mắt, như sắp khóc trong hạnh phúc vậy.

Cậu mông lung nghĩ về tình cảm cô bé dành cho cậu. Myuri tin trọn vẹn vào cảm xúc của mình, và sẵn sàng hi sinh vì nó. Dù cậu đã làm điều tệ hại đến thế với cô bé.

Cậu dồn hết chút sức lực còn lại trong thân thể cứng đờ để đáp lại vòng tay ấy.

Dù không thể gửi cầu nguyện lên Chúa, cậu vẫn mấp máy môi, nói lời cuối cùng.

“Myu…ri…”

“Vâng?”

Đôi mắt đỏ hổ phách của cô ánh lên trong đêm, dịu dàng như lửa.

“Anh xin lỗi… Anh thật tệ với em…”

Hoặc có lẽ, cậu chỉ mơ rằng mình đã kịp nói ra điều đó.

Thế giới dần chìm trong yên lặng, và cơ thể cậu thôi dập dềnh theo sóng.

Ngay khoảnh khắc nhận ra mình đang chìm xuống, một ý nghĩ vụt qua—

Đức Mẹ Đen ở đâu rồi?

Đây không phải là lời mỉa mai đức tin của người khác mà chỉ là một lời khẩn cầu, mong bà đến tiễn cậu đi.

Cậu không còn cảm thấy cái lạnh của biển nữa.

Và ý thức cậu cũng lặng lẽ chìm sâu.