Klein gặp Jürgen Cooper trong một văn phòng tại đồn cảnh sát Rice. Vị luật sư cao cấp trẻ tuổi vẫn đóng nguyên bộ đồ trang trọng trên người, như thể sẵn sàng bước vào bữa tiệc của giới thượng lưu bất cứ lúc nào: lễ phục hai hàng khuy đen dài, sơ mi trắng cổ cứng, nơ to bản, giày da bóng lộn. Bộ dáng đó đã khiến mấy tay cảnh sát phải thưa thưa dạ dạ, biết ý biết tứ với anh ta.
Jürgen cầm chiếc mũ chóp lụa nửa cao, nhìn Klein bằng đôi mắt xanh và nói, “Phần thủ tục đã xong, anh chỉ việc đóng 10 Bảng tiền bảo lãnh nữa thôi là được về.”
“Cảm ơn.”
Klein không nói gì nữa. Anh đi theo luật sư Jürgen có gương mặt ưa nhìn nhưng phong thái cứng nhắc đến phòng tài chính ở bên cạnh, rồi rút ví móc ra hai tờ 5 Bảng. May mà anh đã mang hết 95 Bảng bên mình, không khéo lại phải vay người hàng xóm tốt bụng. Quan trọng hơn, nếu để tiền ở nhà, ai biết sau khi cảnh sát lục soát xong sẽ còn thừa bao nhiêu? Đưa lên sương mù xám càng không được, vì biết đâu anh sẽ cần tiền "bôi trơn" để thoát thân.
Không ít tờ báo và tạp chí thời nay thường xuyên đăng bài bôi nhọ cảnh sát, cho rằng lực lượng này thiếu sự giám sát, hành động thô lỗ, tham nhũng tràn lan, thường xuyên tống tiền, tàn nhẫn và độc ác… Đối với những điều đó, Klein luôn giữ thái độ nửa tin nửa ngờ. Có lẽ số tiền trên người Meursault đã rơi vào túi ai đó trong đồn cảnh sát rồi cũng nên.
Nộp xong tiền bảo lãnh, Klein theo chân Jürgen rời khỏi đồn, không khỏi rùng mình khi bị cơn gió lạnh ẩm ướt táp vào mặt.
“Tiền bảo lãnh của anh sẽ được hoàn trả sau khi vụ án kết thúc. Tất nhiên, đừng mong họ sẽ chủ động thông báo cho anh… Ừm, nếu sau một tuần mà không thấy ai trên đồn gọi anh tới thì anh có thể đến đây để yêu cầu hoàn lại tiền bảo lãnh. Về mặt lý thuyết, rất có thể anh còn nhận được một khoản bồi thường tương ứng từ di sản của đối phương. Theo lý thuyết là vậy…” Jürgen nói rồi bước về phía chiếc xe ngựa đang đậu gần đó.
Cơn mưa dai dẳng cả ngày cuối cùng cũng tạnh khi màn đêm buông xuống, nhưng vầng trăng đỏ vẫn nấp sau những đám mây đen. Lúc này, trên đường phố chỉ còn ánh sáng tù mù từ những chiếc đèn khí.
“Vậy thì tốt quá.” Klein những tưởng mình sẽ mất trắng 10 Bảng kia.
Anh buộc phải đánh giá lại chi phí trong nhiệm vụ của Ian. Tiền công chỉ có 5 Bảng, song nhiều đồ đạc và bộ ấm trà trong phòng đã bị phá hỏng, cần phải mua mới hoặc tìm người sửa chữa, cộng thêm tiền vật liệu, tiền vận chuyển bằng xe ngựa, tiền sửa quần áo thì... có vẻ... anh đã bị lỗ vốn... Nếu không thể lấy lại tiền bảo lãnh 10 Bảng thì lỗ to! Ừm... đặc tính phi phàm mà Meursault để lại cũng đáng một khoản… Anh từng nghĩ rằng trường hợp xấu nhất mà những thám tử tư hoạt động tại nhà có thể gặp phải là ế khách, chứ không đến mức lỗ vốn, ai dè…
Klein quay sang nhìn luật sư Jürgen đang ngồi ngay ngắn, thành khẩn nói, “Cảm ơn, cảm ơn anh đã chủ động bảo lãnh cho tôi. Tôi cần trả cho anh bao nhiêu?”
Jürgen trịnh trọng gật đầu, “Lần này thì miễn phí. Tôi đã nghe chuyện của anh từ trung sĩ Fassic rồi. Tôi tin là chúng ta sẽ còn nhiều dịp hợp tác trong tương lai.”
Sẽ còn nhiều dịp hợp tác trong tương lai... Klein cười khẽ và nói, “Luật sư Jürgen à, nghe cứ như anh đang trù tôi vậy.”
Jürgen nghiêm túc lắc đầu, “Không, ý tôi không phải thế. Thám tử tư thường hợp tác với luật sư cố định mà.”
Anh à, anh đúng là chả có tí máu hài hước nào cả… Trông còn trẻ thế mà… Klein mỉa thầm, rồi cười bảo, “Vừa hay tôi đang muốn tìm một luật sư giúp tôi soạn hợp đồng đầu tư.”
“Hợp đồng đầu tư?” Jürgen hỏi lại bằng giọng hơi ngạc nhiên.
“Tôi biết điều này không thuộc phạm vi công việc thám tử tư, nhưng tôi vừa bắt gặp một cơ hội đầu tư tốt.” Klein giải thích đôi câu, “Luật sư Jürgen, anh tính phí soạn hợp đồng như thế này ra sao?”
“Phí được tính dựa trên tổng giá trị hợp đồng và mức độ phức tạp.” Jürgen cẩn thận đáp.
“Tổng giá trị là 100 Bảng, tôi cần các điều khoản…” Klein trình bày chi tiết các yêu cầu, bao gồm quyền ưu tiên mua, quyền phủ quyết và các điều khoản khác.
Jürgen trầm ngâm mấy phút mới nói, “2 Bảng nhé. Sáng thứ Hai tôi sẽ giao cho anh.”
“Được.”
Rồi Klein gạt chủ đề này sang một bên, chuyển sang hỏi Jürgen về vụ án tối nay.
Về đến phố Minsk, Klein chủ động trả 3 Soli tiền xe, tạm biệt vị luật sư trẻ luôn có vẻ nghiêm túc trước khi quay về nhà.
Klein mở cửa bước vào, lòng thấy mệt mỏi khi nhìn cảnh tượng bừa bộn trước mắt. Anh không ngờ sự nghiệp thám tử tư lại bắt đầu bằng một khoản lỗ như vậy.
Anh vừa cởi áo khoác, bắt tay vào dọn dẹp đống lộn xộn thì chuông cửa kêu lên. Anh bèn mở cửa với vẻ thắc mắc, trông thấy cô hầu Julian mặc trang phục trắng đen của nhà hàng xóm.
“Chào anh Moriarty, ông bà Sammer muốn mời anh qua bàn về chuyện vừa rồi.” Giọng Julian pha chút sợ sệt.
Đến rồi... chuyện bồi thường... Klein mỉm cười, “Được.”
Anh thay một chiếc áo khoác nguyên vẹn, sạch sẽ rồi theo cô hầu sang nhà bên cạnh. Trong phòng khách, Luke Sammer cùng vợ Stelyn Sammer đang ngồi chờ sẵn trên ghế sofa.
Luke hình vóc to lớn với hai hàng ria mép đẹp đẽ đứng lên, chìa tay về phía Klein và cười khẽ, “Chào buổi tối, anh Moriarty. Đến giờ tôi mới biết anh là thám tử tư đấy. Làm hàng xóm mà như vậy thì thật không đạt chuẩn nhỉ.”
“Không, đây là lỗi của tôi. Bản thân tôi cũng không chắc mình có hợp với nghề này không. Biết đâu nay mai lại đổi việc khác cũng nên.” Klein bắt tay ông chủ nhà rồi nói, “Tôi rất tiếc về chuyện tối nay, tôi chắc chắn sẽ bù lại.”
“Đây chỉ là chuyện ngoài ý muốn thôi.” Luke an ủi.
Stelyn xinh đẹp có mái tóc vàng và đôi mắt xanh tò mò hỏi, “Anh thực sự đã đánh chết tên đột nhập? À mà, anh dùng hồng trà nhỉ?”
Klein gật đầu, “Có lẽ chỉ là một tên trộm thôi.” Anh không đề cập rằng nguồn cơn vụ việc xuất phát từ một nhiệm vụ để tránh vợ chồng nhà Sammer có ấn tượng xấu.
Ngay cả cảnh sát cũng không nói thì mình đâu cần chủ động kể thêm… Klein thầm bổ sung.
Luke cười bảo, “Chắc hẳn kĩ năng chiến đấu của anh tốt lắm. Tôi thực sự cảm thấy yên tâm hơn khi có anh làm hàng xóm đấy. Biết đâu sau này chúng tôi cũng phải nhờ vả anh việc gì đó cũng nên.”
Klein nửa đùa nửa thật, “Thật ra tôi suýt bị giết rồi.”
“Dù thế nào thì anh vẫn là người thắng cuối cùng.” Luke nói.
Sau vài câu chuyện phiếm xoay quanh chủ đề này, Stelyn bưng tách trà sứ trắng nạm vàng lên, nhấp một ngụm rồi hỏi, “Thám tử tư mỗi tuần thường nhận được bao nhiêu nhiệm vụ và thu thập thế nào vậy? Tôi khá tò mò chuyện này.”
Klein không giấu giếm, anh cười rộ và đáp, “Cũng tùy lúc nữa. Tương tự việc làm nông vậy, lúc được mùa lúc thất thu. Tuần này tôi đã kiếm được 5 Bảng 5 Soli, nhưng sau chuyện kia thì có khi lại lỗ mất rồi.”
Stelyn dường như không nghe thấy nửa câu sau của anh, vẫn tiếp tục nói, “Nếu giữ được mức thu nhập 5 Bảng mỗi tuần thì anh có thể sống khá tốt ở quận Cherwood của Backlund, không cần tìm người trọ chung nữa. Và anh sẽ thuê được một người hầu gái lo việc vặt. Cứ hai tuần một lần là có thể đi nghe hòa nhạc, xem kịch hoặc opera, mỗi tuần chơi quần vợt hoặc bóng quần một lần, tham gia salon đọc sách hoặc dùng bữa ở nhà hàng tử tế một lần… Tất nhiên, nếu đã tính tới chuyện cưới xin thì anh nên tiết kiệm hơn, mức lương 5 Bảng mỗi tuần vẫn chưa thể gọi là dư dả được.”
“Vậy mức lương mỗi tuần bao nhiêu mới là ‘thực sự dư dả’?” Klein phụ họa.
“7 Bảng, ít nhất 7 Bảng.” Stelyn hơi ngẩng cằm lên.
Klein quay sang Luke, thuận miệng hỏi, “Tôi nghe vợ ông bảo ông làm ở công ty Coim. Không biết công ty chủ yếu kinh doanh gì vậy?”
“Than không khói và than củi.” Luke cười đáp.
Bảo sao ông có thể trở thành thành viên của Hiệp hội Giảm phát thải khói than… Klein ngẫm nghĩ một lát rồi hỏi tiếp, “Quản lý ở Backlund thường nhận lương bao nhiêu vậy? Báo chí hiếm khi nhắc đến chuyện này.”
“Ha ha, còn tùy ngành, tùy công ty, tùy vị trí nữa. Quản lý cấp cao nhất ở ngân hàng Backlund có lương 5.000 Bảng một năm, còn tôi, tính cả thưởng cũng chỉ được 330 Bảng đến 440 Bảng thôi.” Luke thản nhiên nói.
Tức là khoảng 8 Bảng một tuần… Chả trách…
Klein còn chưa kịp mở miệng thì Stelyn Sammer đã cằn nhằn, “Thực ra chúng tôi có thể sống ở ngoại ô, như vậy tôi sẽ có một khu vườn và bãi cỏ, còn Luke sẽ sở hữu một chuồng ngựa, mua chiếc xe ngựa mới tinh cùng hai con ngựa non mà anh ấy mong mãi, nhưng thế thì tốn thời gian đi làm hơn, mà thời gian mới là thứ quý nhất.”
Một cỗ xe ngựa mới kèm ngựa có giá khoảng 100 Bảng… Lương 8 Bảng một tuần quả là không tồi, tiếc là mình vừa mới được tăng lương thì… Klein chỉ biết mỉm cười.
Anh lại hàn huyên vài câu rồi mới cáo từ ra về, lòng thầm than thở: Vợ chồng nhà Sammer khá tốt đấy chứ, chủ nhà khó tính hơn mà gặp vụ này thì hẳn đã trừ tiền cọc và tống cổ mình ra đường rồi…
Trở về nhà, Klein bắt tay vào việc. Anh không vội lên trên màn sương xám để kiểm tra dòng khí ấm áp trên mu bàn tay, cũng không vội bói toán vì sợ đơn vị đặc nhiệm của quân đội có thể đang rình mò. Đồng thời, anh quyết định tối mai sẽ đến quán rượu mà Ian đã nhắc đến để mua súng, phòng khi có kẻ liều lĩnh tấn công.
Klein còn định tìm thuê một vệ sĩ, một vệ sĩ là Kẻ Phi Phàm chân chính và mạnh mẽ. Đây là một cơ hội tiếp cận giới Phi Phàm mà không lo lộ thân phận. Chưa kể anh cũng sợ người mà vị đại sứ thuê có khả năng qua mặt được cả đơn vị đặc nhiệm của quân đội.
Một “ác linh” đang âm thầm tìm cách báo thù, một Kẻ Phi Phàm ở Danh Sách 8 lại cần tìm vệ sĩ, buồn cười nhỉ? Nhưng với Klein, an toàn vẫn là trên hết.
Nếu đắt quá thì mình sẽ thổi còi để gọi thầy Azik. Tất nhiên, chuyện này còn có tỉ lệ nguy hiểm hơn… Mình vẫn chưa hiểu hết về Vật Phong Ấn 0-08… Vừa dọn phòng, Klein vừa lặng lẽ lẩm bẩm.
…
Khi nghi lễ thanh tẩy kết thúc, người đàn ông đeo mặt nạ cứng màu trắng nói với Xio và Fors, “Bất kể đó là loại tà linh nào, tôi đều trục xuất đi rồi. À, trong trường hợp nó đạt tới trình độ ác linh mà tôi không thể trừ được thì vừa rồi phải có phản ứng mới đúng. Nhưng chẳng có gì xảy ra cả.”
Vừa nói, hắn vừa đổ những giọt nước ngưng tụ trên biểu tượng mặt trời vào một chiếc lọ kim loại nhỏ, rồi trao cho Xio và nói, “Khi nào về nhà, cô hãy vẩy nó trong phòng để triệt tiêu mọi tàn dư nhé.”
“Cảm ơn.” Xio trả tiền, dẫu lòng đầy xót xa nhưng cũng cảm thấy yên tâm hơn hẳn.
Cô cùng Fors vừa trở về phòng khách thì nhận được một mảnh giấy từ người phục vụ: Cô Trọng Tài đã mua công thức “Quan Trị An” này, cô bằng lòng đến thư phòng trò chuyện một lát không? Có lẽ tôi có thứ cô cần.
Ai vậy? Làm thế nào người đó biết mình vừa mua công thức "Quan Trị An"? Đồng tử xanh của Xio co lại. Cô kinh ngạc nhìn quanh, nhưng không phát hiện ra ánh mắt khả nghi nào.
Theo lời ông A, giao dịch ở đây lý ra phải rất an toàn và tuyệt đối bí mật… Cuối cùng, Xio không kìm được cái nhìn về phía sofa đơn, thấy ông A với gương mặt ẩn dưới mũ trùm vẫn lặng lẽ quan sát mọi người, không biểu lộ chút bất thường nào.
Cô huých khuỷu tay vào Fors, khẽ hỏi, “Tớ có nên đi không?”
Fors cầm tờ giấy, nhìn lướt qua rồi đáp ngay, “Đi đi, ít ra ở đây còn có ông A trông chừng, không ai dám làm gì cậu cả. Nhân cơ hội này tìm hiểu xem đối phương muốn gì, biết đâu cậu lại kiếm được nguyên liệu ma dược mình cần?”
“Nghe cũng có lý…” Là một người năng động, Xio lập tức gật đầu với người phục vụ, một lần nữa đi theo đối phương đến cửa thư phòng, không quên khoác áo choàng có mũ trùm.
Mũ trùm che kín cả gương mặt khiến cô gần như không nhìn rõ lối đi phía trước. Xio trùm kín mít như vậy, mở cửa, bước vào trong, thoáng thấy một người đàn ông mặc áo đuôi tôm đen ngồi sau bàn làm việc. Đối phương đeo mặt nạ vàng óng, chỉ lộ ra đôi mắt, lỗ mũi, miệng và hai má, làm cho người khác không có cách nào tưởng tượng ra diện mạo thật.
Đôi mắt nâu nhạt ẩn sau mặt nạ lấp loáng, ông ta chỉ vào chiếc ghế đối diện bàn, “Ngồi.” Giọng cố tình khàn khàn, không có gì đặc biệt.
Xio trở tay đóng cửa thư phòng, ngẩng đầu và ưỡn ngực, ngồi xuống vị trí chỉ định một cách khí thế rồi mở miệng, “Ông có nguyên liệu chính của ma dược 'Quan Trị An'?”
Người đàn ông đeo mặt nạ cười khe khẽ, “Đúng vậy, mắt của Sâu Quỷ Khủng Bố và móng vuốt phải của Gấu Chiến Bạc, tôi đều có cả. Thực ra, chính tôi đã nhờ người bán hộ công thức ma dược 'Quan Trị An'.”
Chả trách... Xio thường bị bạn bè trêu là đầu óc đơn giản, nhưng một người có thể sống sót giữa giới siêu phàm, giữa đám dân nghèo và băng đảng ở quận Đông chưa bao giờ là kẻ liều lĩnh mù quáng. Cô nhạy bén với nguy hiểm không kém gì thú hoang.
Cô trầm giọng hỏi, “Ông làm vậy để làm gì?”
“Chọn người phù hợp làm trợ thủ.” Người đàn ông đeo mặt nạ cười khẽ, “Với tình hình tài chính của cô, sẽ rất khó gom đủ tiền mua hai nguyên liệu phi phàm này trong thời gian ngắn. Dĩ nhiên, cô có thể bán lại công thức ở những buổi tụ họp Kẻ Phi Phàm khác, nhưng mà, tin tôi đi, như vậy chỉ rước thêm rắc rối cho cô mà thôi. Giới này tuy rộng mà hẹp. Tôi cũng không phải người đơn độc.”
Xio cau mày, “Nếu ông thuộc một tổ chức lớn, sở hữu cả công thức ma dược 'Quan Trị An' lẫn 'Trọng Tài', thì cần gì tới tôi nữa?”
“Có những chuyện chúng tôi không muốn tự nhúng tay vào. Lý do thì nhiều, nhưng tôi không cần phải kể cho cô. Bất cứ Trọng Tài nào tự bước vào con đường phi phàm ít nhiều đều có dây dưa với quý tộc. Đó cũng là điều chúng tôi cần.” Người đàn ông đeo mặt nạ giải thích sơ qua.
Ông ta có vẻ không biết gì về xuất thân của mình, cũng chẳng rõ tiếng tăm của mình ở quận Đông… Xio hơi thả lỏng.
Người đàn ông đeo mặt nạ tiếp tục, “Cô cứ xem đây như nguồn thu nhập thêm ngoài các hoạt động tại buổi tụ họp của Kẻ Phi Phàm. Tôi sẽ giao cho cô một số nhiệm vụ và trả công tương xứng. Nếu thấy nguy hiểm, cô có quyền từ chối. Đây là một cuộc trao đổi tự do, sòng phẳng. Khi nào góp đủ tiền, cô có thể mua nguyên liệu từ tôi.”
Chuyện này... Xio, vẫn còn đang vật lộn với chuyện tiền nong, bỗng thấy lòng xao động. Cô cố giữ vẻ dè dặt thêm chín giây rồi mới nói, “Miễn là tôi có quyền từ chối nhiệm vụ, tôi sẽ cân nhắc.”
“Không thành vấn đề.” Người đàn ông đeo mặt nạ bật cười. “Giờ chúng ta có thể thỏa thuận cách thức và địa điểm gặp mặt sau này. Để cô yên tâm, quyền chủ đạo thuộc về cô.”
“Được thôi.” Dẫu Xio vẫn còn mơ hồ, chẳng hiểu sao đối phương lại chủ động giao việc cho mình, cô vẫn đồng ý. Ít nhất, cô hiện vẫn chưa nhận ra nguy cơ rõ rệt.
…
Klein tất bật suốt cả ngày Chủ Nhật để mua ghế tựa, bộ ấm trà và khâu vá quần áo. Anh dùng hết 6 Bảng 9 Soli để đưa phòng khách, phòng ăn và bản thân về nguyên trạng.
“Lỗ cả vốn rồi. Mong là Sở Cảnh sát sẽ bồi thường những tổn thất của mình bằng di sản của Meursault. Nhưng, than ôi, hy vọng đó mong manh lắm, giỏi cũng chỉ được một phần thôi.” Klein xếp gọn đống hóa đơn và biên lai, chờ cơ hội sử dụng trong tương lai.
Dĩ nhiên, nếu chỉ xét về mặt thu nhập, anh đã kiếm được một khoản kha khá. Đặc tính phi phàm của Meursault trị giá ít nhất 300 Bảng, hoặc hơn. Với tiền đề là Klein có thể tiếp cận giới Kẻ Phi Phàm.
Sau bữa tối, Klein mặc áo len trơn màu, khoác thêm áo công nhân màu xanh xám, đội mũ lưỡi trai và tiếp tục ra ngoài. Sau hai lần chuyển xe, anh đến được phố Cổng Sắt thuộc khu vực Cầu Backlund.
Vừa đi được vài bước, anh đã bắt gặp quán rượu Người Dũng Cảm, nơi có một gã đàn ông vạm vỡ cao gần hai mét đang khoanh tay đứng trước cánh cửa gỗ màu đen trông khá nặng nề. Gã vạm vỡ ném cái nhìn dò xét về phía Klein, nhưng không ngăn anh đẩy cửa. Cổ họng gã khẽ chuyển động khi nghe thấy tiếng hò reo và tiếng cốc chạm nhau ở bên trong.
Đây đang là giờ cao điểm kinh doanh của quán rượu. Dẫu còn chưa bước vào, Klein đã cảm nhận được những đợt sóng nhiệt ập vào mặt, ngửi thấy mùi bia mạch nha nồng nặc và nghe thấy tiếng ồn ào huyên náo.
Đúng như dự liệu, anh thấy hai sân khấu ở giữa. Một trong số đó đang diễn ra cuộc thi chó bắt chuột, sân khấu còn lại thì có hai võ sĩ quyền anh đang kiên nhẫn chờ đợi, chuẩn bị cho trận đấu sắp diễn ra.
Mùi bia quyện với mùi mồ hôi bay tới. Klein đẩy nhẹ cặp kính gọng vàng, bóp bóp mũi, vừa bảo vệ tài sản trên người, vừa cố sức chen đến vị trí quầy bar.
Trước khi người pha chế kịp mở miệng, anh đã nói, “Một ly bia Southville.”
Đây là loại bia ngon nhất mà vương quốc Loen sản xuất.
“5 Penny.” Người pha chế thuần thục đáp.
Klein móc ra một nắm tiền xu, đếm đủ năm đồng rồi đưa cho đối phương, đổi lấy một cốc gỗ lớn đựng thứ chất lỏng màu vàng kim, tỏa mùi bia thơm nồng quyến rũ.
“So với nó, nhiều loại bia khác thậm chí không đáng được gọi là rượu, chỉ có thể xem như đồ giải khát thôi.” Người pha chế cười khùng khục.
Klein nâng cốc lên nhấp một ngụm, cảm nhận sự mát lạnh sảng khoái, vị đầu đắng và thơm, tiếp đến là vị mạch nha bùng nổ, để lại một dư vị hơi ngọt.
Đặt cốc xuống, nhìn lớp bọt trắng mịn màng, anh tranh thủ hỏi, “Kaspars Kalinin đâu?”
Người pha chế ngừng động tác lau chén, ngước lên và quan sát Klein vài giây trước khi chỉ sang bên cạnh, “Phòng bi-a số 3.”
Với tinh thần không lãng phí thứ gì, Klein cầm theo cốc bia đến phòng bi-a số ba. Anh chỉ gõ nhẹ một cái, cánh cửa đã kẽo kẹt mở ra. Hai người đàn ông cầm gậy bi-a trong phòng dừng lại, đồng thời nhìn về phía cửa.
“Tôi tìm Kaspars Kalinin.” Giữa sự im lặng, Klein vội vàng nói thêm, “'Lão Già' giới thiệu tôi đến đây.”
Nghe vậy, người đàn ông tuổi đã ngũ tuần, mũi to, mặc áo sơ mi vải lanh, trầm giọng nói, “Vào đi.”
Trên mặt lão có một vết sẹo lớn, nham nhở, kéo dài từ đuôi mắt phải đến mép bên phải, cùng cái mũi bợm nhậu điển hình, gần như đỏ gay.
Klein chậm rãi bước vào, tay cầm cốc bia, thấy đối thủ chơi bi-a của Kalinin đã đặt cây cơ xuống, rời khỏi phòng và tiện tay đóng cửa lại như một thói quen.
Kaspars Kalinin khập khiễng đi đến và hỏi, “Mi muốn gì?”
“Một khẩu súng ổ xoay đặc chế có sức sát thương cao và năm mươi viên đạn.” Klein lại uống một ngụm bia Southville.
“3 Bảng 10 Soli.” Kaspars ra giá. “Nó sẽ đắt hơn một cửa hàng vũ khí thông thường, vì bao gồm cả phí rủi ro mà tau phải gánh chịu.”
“Thỏa thuận.” Klein lấy từ túi quần ra năm tờ giấy bạc 1 Bảng mà anh đã chuẩn bị và đếm bốn tờ đưa cho đối phương.
Kaspars tiện tay kiểm tra độ thật giả của tờ tiền, rồi gật đầu bảo, “Mi dứt khoát hơn vẻ ngoài đấy. Đợi tau năm phút.” Lão đặt những tờ tiền lên bàn bi-a, gác cây cơ lại, khập khiễng ra cửa.
Nhìn Kaspars rời đi, Klein với vẻ chán nản quay sang nhìn trò bi-a đang thịnh hành và nhận ra nó không khác gì trò snooker đã được phát triển hoàn thiện ở Trái Đất. Ắt hẳn là ông rồi, Roselle Đại đế… Anh suýt lắc đầu bật cười.
Sau một lúc chờ đợi, Kaspars đẩy cửa vào, mang theo một gói hàng được bọc trong giấy nâu và hai tờ 5 Soli.
Klein nhận tiền cùng gói hàng rồi mở nó ra ngay tại chỗ. Mắt anh bắt gặp nòng súng lục dài màu bạc. Báng súng dường như được làm bằng gỗ óc chó. Ngoài ra là năm mươi viên đạn màu vàng sáng được đặt ngay ngắn trong hộp.
Klein thử khẩu súng rỗng, nạp năm viên đạn, nhét khẩu súng lục vào bao da dưới nách đã mua cách đây một thời gian. Đoạn, anh gom những viên đạn còn lại, ngẩng lên nhìn Kaspars, cân nhắc rồi hỏi, “Nếu tôi muốn thuê một vệ sĩ giỏi, tôi nên tìm ai? Một người cực kì mạnh, loại vượt qua giới hạn con người ấy.”
Kaspars dụi chiếc mũi to đỏ rực của mình. Đôi mắt lão trở nên lạnh lẽo. Lão chăm chú nhìn Klein suốt hai phút, dùng thái độ trầm mặc để tạo cảm giác đe dọa, “Tau có thể hỏi dò cho mi, nhưng chưa chắc đã có người chịu nhận nhiệm vụ này.”
Lão ta dường như quen biết không ít Kẻ Phi Phàm… Klein nghĩ thầm, môi hơi vểnh lên khi cười bảo, “Bất kể kết quả thế nào, xin cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn của mình trước.”
Kaspars cất những tờ tiền trên bàn bi-a rồi lại bước ra ngoài. Trọn mười phút sau, lão mới trở lại phòng. Khi ấy, Klein đã uống cạn cốc bia Southville to đùng trong lúc buồn chán.
“Hắn muốn gặp mi trước khi đưa ra quyết định,” Kaspars nói bằng giọng trầm.
“Không vấn đề gì. Nếu là tôi, tôi cũng cần xác định độ khó của nhiệm vụ.” Klein mỉm cười và gật đầu.
Anh theo chân Kaspars khập khiễng, đi qua khu vực bên cạnh võ đài quyền anh đông đúc, đến một vị trí gần bếp của quán rượu.
Đột nhiên, Kaspars dừng bước, gõ nhẹ vào một cánh cửa. Sau khi được phép, lão đẩy cửa, dẫn Klein bước vào.
Đó là một phòng bài, nơi có hơn mười người đang chơi xì phé Texas. Khi thấy Kaspars và Klein tiến vào, một người đàn ông mặc áo sơ mi trắng và gi-lê đen từ từ đứng dậy. Những người chơi bài khác đều dừng cử động, không ai phát ra âm thanh.
Vừa nhìn thoáng qua, Klein đã hơi cau mày. Anh nhận thấy ngoài người đàn ông đứng dậy, những người chơi bài còn lại đều có một vẻ kỳ quái khó tả. Mặt thì tái nhợt, còn ánh mắt không khác nào dã thú.
Anh bèn gặm răng hàm bên trái hai lần, âm thầm kích hoạt linh nhãn. Thình lình, cơ bắp anh căng cứng, thậm chí gần như không thể kiểm soát nét mặt của mình. Bởi lẽ, hào quang của tất cả những người chơi đó có màu đen kịt! Điều đồng nghĩa với việc ngoài người đàn ông đứng dậy, hơn mười người đang chơi bài đều đã chết!
Không, không phải đơn giản là “đã chết”, người chết làm gì có màu hào quang. Tất cả chúng… là xác sống!
Mùi thối rữa ùa tới. Người đàn ông mặc áo sơ mi trắng, gi-lê đen bước đến trước Klein. Mặt hắn cũng tái nhợt, ánh mắt thấp thoáng ác ý sâu đậm.
Cảnh một người sống chơi bài với hơn chục cái xác trong căn phòng tranh sáng tranh tối suốt nửa đêm quả thực ghê rợn đến tột cùng, khiến người ta không khỏi rợn tóc gáy.
Klein đè nén nỗi sợ hãi từ bản năng, nhìn thẳng vào người đàn ông khoảng hai mươi tám, hai mươi chín tuổi, kẻ có làn da tái nhợt, đôi mắt nâu chứa đựng ác ý sâu đậm, toàn thân toát lên hơi hướng điên loạn, đang đứng trước mặt mình. Anh giả vờ bị khí thế đối phương đe dọa, lùi lại một bước. Kaspars thì đã rời khỏi phòng bài và đóng cửa lại.
Người đàn ông hỏi bằng một giọng trầm, “Mày tìm vệ sĩ hả?”
“… Phải.” Klein cố tình nuốt nước bọt. Sự kỳ quái của người đàn ông vừa khiến anh sợ hãi, lại vừa khiến anh an tâm. Vệ sĩ càng mạnh, anh càng an toàn!
Người đàn ông mặt tái nhợt vận áo gi-lê đen hất cằm hỏi, “Tại sao mày lại tìm vệ sĩ? Mày sẵn lòng trả bao nhiêu cho việc này?”
Klein không trả lời ngay. Anh suy nghĩ gần hai mươi giây trước khi nói, “Tôi sẽ cho anh biết chi tiết về nhiệm vụ trước, để anh tự định giá nó. Nếu tôi có thể trả được, hoặc nếu tôi sở hữu vật phẩm với giá trị tương đương, chúng ta sẽ đạt thỏa thuận. Nếu không, tôi đành bỏ cuộc và tìm người khác.”
Người đàn ông có ánh mắt đầy ác ý không lên tiếng, chỉ khẽ gật đầu ra hiệu cho Klein kể tiếp. Klein cố tình liếc nhìn những xác sống, coi chúng như những người chơi bài bình thường, dùng ánh mắt dò hỏi “Trước khi tôi trả lời, có cần đuổi những kẻ đó ra khỏi phòng không?”
“Không cần thiết.” Người đàn ông mặt tái nhợt trầm giọng đáp.
Klein do dự một lúc rồi thật thà nói, “Tôi đắc tội với một người máu mặt, người đó rất có thể được cả quốc gia chống lưng.”
Phòng chơi bài bỗng im phăng phắc. Người đàn ông có ánh mắt ẩn chứa ác ý và hơi hướng điên cuồng đứng sững tại chỗ như thể đã hóa thành một bức tượng thạch cao.
Khoảng một phút sau, hắn ta từ từ nói, “Nhiệm vụ này vô giá. Cút đi.”
Hả? Klein bất ngờ đến mức không phản ứng kịp. Mãi cho đến khi người đàn ông quay người đi về phía bàn chơi bài, anh mới hiểu rằng thỏa thuận thất bại.
Anh dẫn theo một đám xác sống chơi bài trong phòng, tỏ ra mình có địa vị cao và sức mạnh lớn, vậy mà dễ dàng bị dọa sợ như vậy? Rõ ràng trông anh cũng có chút máu liều mà... Klein vừa bực mình vừa buồn cười khi bổ sung, “Nhân vật lớn đó không có nhiều tự do ở Backlund đâu.”
Người đàn ông mặc áo gi-lê đen phớt lờ anh, ngồi vào vị trí cũ. Đám xác sống bắt đầu chia bài, xem bài và ném ra các phỉnh.
Klein thở dài, lùi khỏi phòng, nhìn thấy lão già ngũ tuần có chiếc mũi bợm rượu và vết sẹo xấu xí Kaspars Kalinin đang đứng chờ bên ngoài.
“Không đạt được thỏa thuận nào cả.” Klein xòe tay ra.
Kaspars chẳng hề ngạc nhiên, lão ta trầm ngâm vài giây rồi hỏi, “Hắn yêu cầu cái giá quá cao à?”
“Không, hắn thấy nhiệm vụ quá khó.” Klein không che giấu lý do.
Kaspars cau mày, “Maric là thằng đáng sợ nhất trong đám người tau quen. Hắn còn chẳng nao núng trước đạn. Nếu cỡ hắn còn thấy vụ này khó nhằn, thì tau không nghĩ mình có thể giúp mi tìm được những tay cứng cựa khác đâu.”
“Tiếc thật.” Klein thở dài.
Kaspars siết chặt nắm tay phải và đấm vào ngực trái, “Nguyện Bão Táp ở bên mi.”
Vậy thì tôi chết chắc… Klein nở nụ cười lấy khổ làm vui, “Cảm ơn. Nếu được, nhờ ông thử hỏi dò giúp tôi mấy tay lợi hại khác. Tôi sẽ trả cho ông một khoản phí. Ừm… Tối mai tôi sẽ lại đến.”
Khi đã nhận được một câu trả lời tích cực, anh mang theo tâm trạng u sầu rời khỏi quán rượu Người Dũng Cảm, thậm chí còn không có hứng chơi một ván bi-a.
Mình có thật thà quá không? Nếu mình mô tả nhiệm vụ đơn giản hơn một chút, Maric hẳn đã đồng ý… Chỉ là không biết hắn sẽ đòi công thế nào… Than ôi, để người không rõ tình hình đối mặt với nguy hiểm thay mình, đấy không phải tác phong của mình… Là một Kẻ Phi Phàm, nếu luôn đi ngược lại những suy nghĩ thật trong lòng và nguyên tắc của bản thân, e rằng chẳng còn xa ngày mất khống chế… Klein vừa thở dài tiếc nuối vừa cảm thấy thanh thản khi đổi xe ngựa trở về phố Minsk.
Tắm rửa xong, Klein không phí thêm than đốt mà đi thẳng vào phòng ngủ, kéo rèm cửa lại để căn phòng tách biệt với thế giới bên ngoài. Trên đường về, anh đã cẩn thận suy nghĩ một hồi và nhận thấy những nguy hiểm tiềm tàng thực ra đều có cách hóa giải.
Đối với vị đại sứ vô danh kia, tìm ra Ian Wright mới là mục tiêu hàng đầu và quan trọng nhất của ông ta. Lý do ông ta cử người đối phó với mình là vì ông ta muốn có được manh mối tìm Ian từ mình. Khi giao lưu trực tiếp thất bại, ông ta mới cân nhắc đến việc giết người và thông linh… Nếu cho ông ta biết mình thực ra cũng chẳng biết Ian ở đâu, thì với khả năng đơn vị đặc nhiệm của quân đội đang giám sát, ông ta sẽ chẳng dại gì mạo hiểm vì một tên tay sai...
Dĩ nhiên, chính sự xuất hiện của mình cùng sức mạnh vượt xa dự đoán của ông ta, đã khiến hành động của họ bị lộ tẩy và hứng chịu thất bại nặng nề. Nếu mình là vị đại sứ kia, mình chắc chắn cũng sẽ nghĩ đến việc trả thù cho hả giận, nhưng tuyệt đối không phải bây giờ, không phải trong lúc tình hình căng thẳng, sóng ngầm cuồn cuộn như hiện tại… Hừm, tiền đề là vị đại sứ kia có đầu óc, chứ không phải một kẻ vô tích sự chỉ biết dựa dẫm quan hệ và hành động theo cảm tính… Việc ông ta được giao xử lý chuyện quan trọng như vậy, chứng tỏ ông ta khá đáng tin cậy… Nói cách khác, mấu chốt là tung tích của Ian Wright!
Ừm… Vẫn còn một nguy cơ tiềm ẩn: Sau thất bại, liệu vị đại sứ có cố tình tiết lộ cho đơn vị đặc nhiệm của quân đội rằng Meursault là một Kẻ Phi Phàm không? Khiến quân đội nghi ngờ sức mạnh của mình rồi mượn tay họ để trả đũa… Nó có thể được thực hiện bằng vài lời nhận xét bâng quơ mà không tốn chút công sức nào, mình nhất định phải đề phòng…
Klein phân tích rõ tình cảnh của bản thân, đột nhiên nảy sinh ý định thuê sát thủ giết vị đại sứ vô danh kia. Nhưng nghĩ đến những Kẻ Phi Phàm mạnh mẽ đang ẩn nấp ở cạnh đối phương, anh lại mất hết nhuệ khí.
Không biết sứ giả đưa tin có nhận nhiệm vụ từ mình khi không có sự cho phép của thầy Azik không… Chắc là không rồi… Mình cần theo dõi sát sao vấn đề này, rồi tìm cơ hội để diệt khẩu chăng? Dù gì ông ta cũng từng cử người đến giết mình, mình không có chút gánh nặng tâm lý nào khi giết ông ta cả… Phải rồi, mình có thể cân nhắc giao việc cho Hội Tarot. Xem tiểu thư "Công Lý" và anh "Người Treo Ngược" có giải pháp nào không… Biết đâu mình có thể dùng một số tiền lớn để thuê được "Ông A" hoặc những kẻ lợi hại cùng cấp bậc… Klein đột nhiên nảy ra một ý tưởng khi nghĩ đến Hội Tarot.
Có ý tưởng, anh nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. Anh lục tìm giấy và bút máy, rồi viết ra câu bói toán: Tung tích của Ian Wright.
Xác nhận không có Kẻ Phi Phàm nào ẩn núp trong phòng, Klein nhìn tấm rèm ngăn cách sự dòm ngó từ bên ngoài, rồi ngả lưng vào ghế, vừa hồi tưởng diện mạo và trang phục của Ian, vừa thầm niệm câu bói toán.
Chẳng mấy chốc, anh chìm vào cõi mộng. Trong thế giới mờ ảo hư vô, anh trông thấy một căn phòng tối tăm, chật hẹp và bẩn thỉu. Bên trong có những chiếc giường tầng và chỗ nằm trên sàn cùng bốn người đang ngủ. Ian say giấc nồng cuộn tròn ở tầng trên cùng của giường, người đè lên chiếc túi đeo cũ kỹ.
Mộng cảnh vỡ tan, Klein mở mắt, giải mã lời gợi ý, “Hoàn cảnh cư trú như vậy chỉ có ở quận Đông và khu vực cầu Backlund, nhưng đây đều là những khu vực cực kỳ rộng lớn, dù có huy động toàn bộ lực lượng cảnh sát ở Backlund cũng không thể rà soát hết được… Ian cẩn thận thật đấy, không để quên bất cứ thứ gì ở chỗ mình, bằng không mình có thể dùng phép bói gậy để tìm ra cậu ta…”
Anh suy ngẫm vài phút, cầm bút viết thêm một đoạn văn trước và sau lời bói toán, biến nó thành một câu trần thuật: Tôi không biết tung tích của Ian Wright. Tôi chưa từng gặp lại cậu ta kể từ khi phát hiện ra thi thể của Zeriel.
Tờ giấy cứ như vậy được đặt trên bàn, với mép bị đè lên bởi cây bút máy.
Xong xuôi, Klein đứng dậy, trở lại giường, kín đáo thực hiện một cú búng xu để xác nhận nhanh xem có ai đang quan sát nhất cử nhất động của anh không. Nhận được câu trả lời phủ định, anh nhanh chóng đi bốn bước ngược chiều kim đồng hồ, niệm thần chú, tiến vào không gian trên màn sương xám.
Bên trong cung điện cổ kính và hùng vĩ, Klein chẳng buồn thị sát tình hình xung quanh, lập tức lặp lại việc bói toán mà mình vừa thực hiện. Thấy câu trả lời phủ định không thay đổi, anh mới gạt bỏ cảm xúc lo lắng, ngẩng đầu nhìn sang bên cạnh, phát hiện trung tâm của ngôi sao đỏ thẫm vừa mới được thêm vào hơi nhuốm chút sắc vàng tựa như ánh mặt trời.
“Đây là nguồn gốc của sự ấm áp mà mình đã cảm thấy?” Klein lan tỏa linh tính của bản thân, cẩn thận chạm nhẹ vào nó như thể đang đáp lại lời cầu nguyện.
Giữa ánh sáng và bóng tối chập chờn, một cảnh tượng mờ ảo nhanh chóng hiện ra trước mắt: Cô gái nhỏ nhắn mà anh đã thử kéo lên màn sương xám đang đứng trước một "bàn tế" với một quý cô có mái tóc nâu hơi xoăn, cùng một người đàn ông đeo mặt nạ cứng màu trắng đang thì thầm niệm tôn danh của Mặt Trời Rực Cháy Vĩnh Hằng, tạo ra một ánh sáng ấm áp và thuần khiết.
Cô ta đang nhờ ai đó trừ tà à? Klein suýt thì bật cười.
Bấy giờ, anh cuối cùng cũng hiểu được nguyên nhân của tình huống trước đó. Không hề có chuyện ai đó đã xuyên qua sương xám để định vị anh. Điều này tương tự như lúc tiểu thư ''Công Lý'' và những người khác niệm tôn danh của anh để cầu nguyện. Sau khi sương xám nhận được thông tin, nó sẽ tự động phản hồi cho anh theo bản năng, nhưng vì đây không phải là lời khấn, nên những âm thanh hư ảo trùng điệp đã biến thành một dòng chảy ấm áp.
“Nhắc nhở, đây là một dạng nhắc nhở, chứ không phải là tổn thương hay ảnh hưởng…” Klein đưa ra phán đoán rõ ràng.
Đồng thời, anh cũng xác định được một điều, đó là cách thức không gian huyền bí bên trên sương xám thiết lập liên kết với tiểu thư ''Công Lý'' và những người khác không hoàn toàn quái dị hay nằm ngoài quy tắc của thế giới này. Nó vẫn chịu một số ràng buộc nhất định và có thể bị ảnh hưởng bởi những phương thức đặc biệt ở một mức độ nào đó.
Klein tiếp tục quan sát hình ảnh trước mắt và lắng nghe âm thanh. Anh không khỏi ngạc nhiên khi thấy rằng lần này kéo dài hơn tất cả những lần trước. Trước đây, anh không thể tự ý dò xét những người được liên kết với các ngôi sao đỏ thẫm. Phải đợi đến khi đối phương tiến hành cầu nguyện, anh mới nhận được hình ảnh tương ứng. Trường hợp khác là khi phản hồi, anh có thể nhìn thấy những gì đang diễn ra và nghe được âm thanh trực tiếp. Tuy nhiên, một khi kết thúc việc đáp lại, anh sẽ không thể nhận thêm bất kỳ thông tin nào nữa. Vậy mà bây giờ, anh giống như đang xem một đoạn băng lê thê ghi lại chương trình thực tế với những hình ảnh bị che phủ bởi mosaic.
Anh thấy cô gái nhỏ nhắn đang trò chuyện với một người đàn ông đeo mặt nạ vàng trong thư phòng, nghe thấy người bạn đồng hành gọi cô là Xio và nhận ra cô ấy đang tìm kiếm nguyên liệu phi thường cho ma dược “Quan Trị An”.
Mãi đến khi hai quý cô trở về nhà, "đoạn ghi hình" mới kết thúc. Klein không khỏi tiếc nuối vì không thấy rõ biển số nhà họ. Nhìn sắc vàng như ánh nắng đang dần tan biến, anh trầm ngâm gật đầu, lờ mờ hiểu được nguyên nhân của sự bất thường này.
“Nói cách khác, sức mạnh thanh tẩy đã giúp mình duy trì được kênh kết nối tương ứng? 30 Bảng của Xio quả là đáng đồng tiền bát gạo... Không biết bao giờ mình mới có thể tự duy trì được nó…” Klein lắc đầu cười một tiếng, hiện thực hóa giấy bút, định tiếp tục bói toán tung tích của Ian Wright trên màn sương xám.
Vẫn là thuật bói toán qua giấc mơ, lần này Klein thấy được nhiều cảnh tượng hơn.
Cảnh đầu tiên vẫn là căn phòng nhỏ tối tăm bẩn thỉu, nơi Ian Wright đang ngủ say trên một chiếc giường tầng.
Cảnh thứ hai là cái cống ngầm mà cả hai đã từng đến. Ian ngồi xổm trước thi thể tàn tạ của Zeriel, vươn tay vuốt ve hai hàng răng trắng ởn rồi lấy ra một chiếc.
Cảnh thứ ba là một con phố đông đúc và ồn ào. Những người qua đường đều mặc quần áo giản dị, thậm chí có người mặc đồ cũ kỹ hoặc rách rưới. Giữa phố là vườn hoa và bãi cỏ, xung quanh là những ống khói thấp đang nhả sương. Ian mặc áo khoác cũ, đội mũ quả dưa cảnh giác quan sát xung quanh một lúc, rồi mới bước vào văn phòng điện báo gần trung tâm phố. Ở góc xéo đối diện là lối vào ga tàu điện ngầm hơi nước mang dáng vẻ một trung tâm thương mại.
Hình ảnh nhạt dần rồi trở nên trong suốt. Klein mở mắt, gõ ngón trỏ lên mép chiếc bàn đồng dài và đưa ra một phán đoán sơ bộ, “Từ chiếc răng đó và hành động gửi điện báo, Zeriel và Ian không phải là một cặp thám tử tình cờ dính líu vào sự kiện nguy hiểm. Họ có một tổ chức đứng sau! Mình hẳn là có thể xác định được cảnh thứ ba ở đâu…”
Klein không vội phân tích sâu, anh không muốn nán lại quá lâu trên màn sương xám. Rời khỏi chiếc ghế lưng cao của ''Kẻ Khờ'', anh đi đến một góc, lục lọi chiếc túi giấy được đặt sẵn ở đó, tìm thấy đặc tính phi phàm của Meursault.
Nâng vật thể đỏ thẫm giống như thạch rau câu lên, Klein lại ngồi xuống và viết câu bói toán mới: Tên ma dược tương ứng.
Trong lúc thầm niệm, một tay anh nắm chặt khối đặc tính phi phàm, tay kia cầm mẩu giấy ghi câu bói toán. Nhờ vào trạng thái nhập định, anh chìm vào giấc ngủ sâu.
Trong giấc mơ xám xịt huyễn hoặc, vị đại sứ có gương mặt gầy gò lún phún râu, vận trang phục sang trọng đến mức phô trương lại xuất hiện trước mắt.
Ông ta cầm một chai chất lỏng màu đỏ thẫm, nói với Meursault, “Uống đi, uống lọ ma dược 'Thợ Săn' này, mi sẽ trở thành người lãnh đạo băng Zmanger. Tất nhiên, không thể thiếu tiền bạc được. Như Roselle Đại đế từng nói 'thưởng phạt phân minh'.”
“Thợ săn? Backlund là một đô thị lớn mà…” Meursault hơi cau mày, thắc mắc hỏi lại.
Trong mắt kẻ mù chữ như gã, thợ săn gắn liền với hoang dã và động vật.
Vị đại sứ trung niên khẽ cười và nói, “Thành phố lớn nhất chính là khu rừng rậm tăm tối nhất. Tất cả mọi người đều có hai thân phận, hoặc là con mồi, hoặc là thợ săn. Ngay cả người thợ săn yếu nhất cũng là một thợ săn. Họ có đủ khả năng làm hại những con mồi mạnh hơn mình. Đi đi, rồi tham gia vào cuộc săn đuổi tráng lệ này.”
Cảnh tượng vỡ tan, hóa thành vô số ánh sáng lung linh. Klein cúi đầu nhìn đặc tính phi phàm màu đỏ thẫm trong tay và thầm nhủ, “Ra là ma dược 'Thợ Săn'. Thảo nào Meursault lại giỏi chiến đấu đến thế, thậm chí còn dùng cả ống thổi để bắn phi tiêu độc. Thảo nào gã có thể lần theo dấu vết của mình đến tận đây…”
“Tuy nhiên, gã có vẻ không hiểu hết bản chất của việc trở thành một 'Thợ Săn'. Gã không biết đặt bẫy trước, không sử dụng vũ khí, không phát huy sở trường tương ứng… Điều này một phần là do gã không biết rằng mình cũng là một Kẻ Phi Phàm, còn là Kẻ Phi Phàm Danh Sách 8, nên đã coi thường mình. Mặt khác, nó chứng tỏ gã mới uống ma dược cách đây chưa lâu…
“Con Đường 'Thợ Săn' nằm trong tay hoàng tộc Sauron của Intis xưa kia, gia tộc Einhorn cai trị Đế quốc Feysac và tổ chức bí mật 'Hội Thập Tự Sắt và Máu' mới xuất hiện trong hai, ba trăm năm gần đây. Cộng thêm phong cách trang phục, gần như có thể xác định danh tính của vị đại sứ đó... một nhà ngoại giao cấp cao của Cộng hòa Intis, đại sứ tại Vương quốc Loen… Không biết món đồ quan trọng mà ông ta đang cố gắng có được là gì…”
Trong dòng suy nghĩ cuộn trào, Klein bao bọc bản thân bằng linh tính và rớt xuống.
Vừa trở về phòng, anh lập tức cảnh giác quan sát xung quanh, nhưng không phát hiện điều bất thường nào. Phù, Klein lặng lẽ thở ra một hơi. Anh càng thêm tự tin rằng buổi họp Hội Tarot vào chiều mai sẽ diễn ra đúng như kế hoạch.
Klein lục tấm bản đồ Backlund đã mua trên tàu hỏa hơi nước, tìm kiếm các văn phòng điện báo nằm dọc theo tuyến tàu điện ngầm và không xa trung tâm con phố.
Backlund chỉ có vài tuyến điện ngầm như thế. Chẳng mấy chốc, Klein xác định được ba mục tiêu: một ở quận Tây, một ở quận St. George, và một ở giao lộ giữa quận Đông và Cầu Backlund. Anh nhớ lại cách ăn mặc và tầng lớp xã hội của hầu hết người đi đường trong giấc mơ, từ đó đi đến kết luận cuối cùng. Địa điểm thứ ba! Nơi quận Đông giao với Cầu Backlund!
Đôi khi, việc diễn giải một lời khải thị đòi hỏi vốn kiến thức thực tế phong phú lẫn khả năng suy luận… Klein tự giễu, đi đến bàn viết và bổ sung một câu nữa vào lời trần thuật cũ, làm cho nội dung trên tờ giấy trở nên phong phú hơn: ‘Tôi không biết tung tích của Ian Wright. Tôi chưa từng gặp lại cậu ta kể từ khi phát hiện ra thi thể của Zeriel. Tuy nhiên, thông qua các nguồn tin riêng, tôi biết rằng Ian Wright đã xuất hiện tại văn phòng điện báo trên phố Branham.’ Viết xong, Klein không gấp tờ giấy lại và cất đi, cũng không dùng linh tính để đốt nó, mà để mặc nội dung được viết trên tờ giấy phô bày một cách công khai trên bàn.
Anh chăm chú nhìn một lúc lâu, rồi mới quay lại giường, cởi quần áo và đi ngủ.
Bên kia tấm rèm khép kín, ánh trăng tròn màu đỏ len qua các tầng mây, sáng vằng vặc.
…
Trong một ngôi nhà ở quận Hillston.
Fors, người không ngủ cùng Xio, đột ngột bật dậy, ôm lấy đầu bằng cả hai tay. Khuôn mặt tương đối xinh đẹp bị vặn vẹo đến cực độ, khiến cô chẳng khác nào một con quỷ.
Fors bịt chặt hai bên tai, liên tục lăn lộn trên giường như đang cố chống lại những lời thì thầm hư ảo. Từng giọt mồ hôi rịn trên trán, từng đường gân xanh nổi lên cuồn cuộn trên mu bàn tay. Cơ thể cô lúc thì căng cứng, lúc thì vặn vẹo. Đôi mắt xanh nhạt vốn luôn mang vẻ giễu cợt cùng uể oải hiện tràn ngập đau đớn. Và sâu thẳm bên trong con ngươi ấy, dường như có vô vàn ánh sáng và bóng tối đang biến chuyển, xếp chồng lên nhau.
“Không!” Fors cuối cùng không thể kìm nén được nữa, bật ra một tiếng kêu thảm thiết, nghe vừa trầm vừa đục. Cô ngừng bịt tai, chuyển sang giật tóc, có vẻ định lấy đau trị đau.
Sau vài phút vật lộn, Fors cuối cùng cũng ngừng lại. Cô buông tay, nhìn mớ tóc nâu hơi xoăn, nở nụ cười yếu ớt đầy tự giễu, “Mình đã nói dối Xio, bảo với cậu ấy rằng những lời thì thầm vào mỗi đêm trăng tròn không có tác động tiêu cực với mình… Mà thật ra, rụng tóc đã đủ nghiêm trọng rồi…”
Fors gắng gượng ngồi dậy, trông qua khe hở của tấm rèm che nửa cửa sổ, thấy vầng trăng đỏ huyền ảo treo cao giữa trời.
“Càng lúc càng tệ hơn rồi. Có khi lần tới mình sẽ mất khống chế vì chuyện này…” Fors không thể đè nén sự yếu đuối mà cô hằng chôn sâu nơi đáy lòng được nữa.
Cô từng thử tháo chiếc vòng tay có thể giúp người ta dịch chuyển thông qua Linh Giới, nhưng điều đó cũng không khiến những lời thì thầm vào đêm trăng tròn biến mất. Cô từng thử uống thuốc an thần, thử niệm tôn danh của Thần Hơi Nước Và Máy Móc, thử vài nghi lễ ma pháp, nhưng chẳng gì có thể thay đổi được thực tế là cô đang dần trượt xuống vực thẳm.
“Giá như mình có thể hiểu những lời nói mớ đó đang nói gì… Mình muốn chết một cách minh bạch, chứ không muốn bị chôn vùi trong sự vô minh… Có lẽ, mình có thể nghe rõ hơn sau khi thăng cấp lên Danh Sách 8? Nhưng mình chưa bao giờ gặp ai bán công thức ‘Bậc Thầy Tạp Kỹ’.” Fors ngẩn ngơ nhìn ra ngoài cửa sổ, đôi mắt cô bị nhuộm đỏ bởi trăng.
…
Sáng thứ Hai, Klein sớm tỉnh sau một giấc ngủ chập chờn, lật người dậy, rời khỏi giường. Anh đi đến bàn viết, bắt đầu kéo rèm và mở cửa sổ để ánh sáng cùng gió tiến vào.
Đúng lúc này, anh thoáng thấy tờ giấy đang mở ra trên bàn qua khóe mắt. Nó hướng ra cửa sổ, vẫn giữ nguyên trạng thái mở toang.
Tuy nhiên, Klein nhớ rõ mồn một rằng trước khi ngủ, mẩu giấy này hướng về phía ghế và giường! Chỉ sau một giấc ngủ, nó đã đảo ngược và thay đổi phương hướng!
Đồng tử Klein co lại. Anh bất thình lình vươn tay kéo rèm, phát hiện ô cửa sổ lồi vẫn đóng chặt, không một chút gió lọt vào trong!
Trong tình huống không có gió, làm sao mẩu giấy tự xoay nửa vòng được? Không, chắc chắn có người đã vào đây mà mình không hề hay biết! Klein bỗng cảm thấy một luồng hơi lạnh chạy dọc sống lưng rồi xộc thẳng lên đầu.
Anh đã chìm vào giấc mộng, không hề có phản ứng nào trước điều đó! Nói cách khác, anh đã gần như rơi vào tay kẻ khác, sống hay chết đều phó mặc cho ý đồ và tâm trạng của đối phương!
Đó là một thành viên thuộc đơn vị đặc nhiệm của quân đội, hay là một Kẻ Phi Phàm mạnh mẽ do vị đại sứ cử đến? Từ việc mẩu giấy giữ nguyên trạng thái đảo ngược thay vì khôi phục nguyên trạng, khả năng cao là vế sau, thể hiện sự cảnh cáo nhất định… Im hơi lặng tiếng lẻn vào như vậy, lợi hại thật… Mình có nên biết ơn sự tốt bụng đó không? Không, việc tiện tay lại không làm, ắt là bởi nguyên nhân tất yếu nào đó… Không muốn đánh động người thuộc đơn vị đặc nhiệm của quân đội đang giám sát quanh đây? Vô số suy nghĩ trào dâng trong đầu Klein. Anh nghĩ đến rất nhiều thứ.
Lý do anh viết những lời đó vào đêm qua và trải mẩu giấy trên bàn viết chính là để cho người khác xem, để vị đại sứ biết được những gì ông ta muốn biết, để trì hoãn bất kỳ hành động báo thù nào có thể xảy ra cho đến khi sự việc kết thúc và để bản thân có thêm thời gian chuẩn bị.
Tuy nhiên, Klein đã dự liệu rằng đối phương sẽ lẻn vào khi anh ra ngoài, vào thời điểm đơn vị đặc nhiệm của quân đội giảm bớt sự giám sát với căn nhà. Ai ngờ, kẻ đó lại có thể vượt qua những Kẻ Phi Phàm xung quanh và lặng lẽ lẻn vào phòng ngủ trong lúc anh say giấc.
Cảm giác vận mệnh của mình bị người khác kiểm soát thật khó chịu!
“Một Kẻ Phi Phàm rất mạnh mẽ, hoặc có khả năng rất quái dị…” Klein xoay lại, đưa lưng về phía cửa sổ lồi, lôi ra một đồng xu 1 Penny.
“Đêm qua có người lẻn vào căn phòng này.”
“Đêm qua có người lẻn vào căn phòng này.”
“...”
Anh thầm niệm câu bói toán, dùng cơ thể để che giấu động tác búng xu.
Đồng xu lộn nhào trong không trung, chưa vượt quá vai Klein đã rơi thẳng xuống, hạ cánh trên lòng bàn tay đang xòe ra của anh. Lần này, mặt số nằm ngửa.
Một kết quả phủ định. Tức là đêm qua không ai lẻn vào phòng ngủ của anh!
Mẩu giấy không thể vô cớ xoay lại như vậy… Chẳng lẽ là mộng du? Không, mình có thể giữ được lý trí ngay cả khi bị đội trưởng xâm nhập vào giấc mơ kia mà… Klein đột nhiên cau mày, nghĩ đến hai khả năng, “Một là việc bói toán đã bị làm nhiễu, dẫn đến những kết quả nhầm lẫn. Hai là kẻ lẻn vào không phải người!”
Klein không vội xác nhận những giả định. Anh vờ như không có chuyện gì xảy ra, xoay lại trang giấy để nó hướng về phía mình.
Những gì anh viết về Ian Wright đều đúng với sự thật. Dù có xác nhận bằng kỹ thuật bói toán thì câu trả lời vẫn là khẳng định. Vậy nên anh tin rằng những người dưới trướng đại sứ sẽ lần theo manh mối này và gặt hái được thành quả. Trong thời gian ngắn, họ chẳng hơi đâu mà trả thù anh.
Tương tự, anh sẽ tiếp tục đặt tờ giấy mở trên bàn viết, để người giám sát từ đơn vị đặc nhiệm của quân đội phát hiện ra, khiến họ giảm bớt sự chú ý đối với anh và chuyển trọng tâm sang Ian Wright, cũng như chạy đua từng giây từng phút với đại sứ để tìm người. Như vậy Klein sẽ an toàn hơn.
“Cảm giác như đang đi trên dây thép vậy. Liệu đây có phải thể chất đặc biệt của 'Tên Hề' không?” Anh bật cười lắc đầu, mở cửa sổ lồi, toan hít vài luồng không khí trong lành buổi sáng. Thế nhưng khói bụi dày đặc và không khí ngột ngạt bên ngoài đã buộc anh phải lặng lẽ đóng cửa sổ lại.
Đè mẩu giấy ghi thông tin của Ian bằng một lọ mực, Klein sang phòng vệ sinh bên cạnh và nhanh chóng làm vệ sinh cá nhân. Tiếp theo, anh lấy bộ lễ phục dài màu đen đính hai hàng khuy cùng chiếc mũ chóp lụa nửa cao treo trên giá áo, rồi đi một mạch xuống tầng một.
Hôm nay anh có hẹn ăn sáng với luật sư Jürgen.
Rút cây gậy chống đen nạm bạc từ giá để ô ở tiền sảnh ra, Klein rời khỏi nhà. Trong màn sương dày đặc với tầm nhìn không quá mười mét, anh men theo lề đường, đi thẳng đến số 58 phố Minsk và nhấn chuông của một ngôi nhà có tông xám trầm.
Giữa tiếng “đinh đinh, đang đang”, một con mèo đen mắt xanh với cái đuôi dựng đứng đột nhiên hiện ra trong đầu anh.
Mèo đen Brody nhón từng bước theo một đường thẳng, đi đến trước cửa, dồn lực trong hai giây, rồi bất ngờ nhảy vọt lên, vươn chân chộp lấy tay nắm cửa. Nó không thể tránh khỏi việc rơi xuống, nhưng cũng nương trọng lượng cơ thể để xoay nắm, khiến cửa mở ra.
Tiếng kẽo kẹt vang lên, gió sáng sớm thổi vào, cánh cửa từ từ lùi lại. Mèo đen Brody kiêu ngạo liếc nhìn Klein một cái, rồi tự bước sang một bên.
“Quả là một chú mèo thông minh.” Klein khen ngợi khi chạm mặt bà lão Doris mặc tạp dề trắng.
Doris cười tươi đến mức những nếp nhăn giãn hết ra, “Còn tùy vào tâm trạng của nó nữa. Đa số thời gian nó đều giả vờ ngốc nghếch, như thể không hiểu ta đang nói gì. Ồ, tôi đã chuẩn bị món sở trường là súp đậu củ cải đậm đặc cùng bánh mì nhúng kèm cho cậu rồi.”
Súp đậu củ cải đậm đặc... Nghe như tên một món ăn kinh dị... Klein mỉm cười nói, “Tôi háo hức lắm.”
Trong lúc họ nói chuyện, luật sư Jürgen bước ra từ phòng tắm. Dù đang ở nhà và mới ngủ dậy không lâu, anh ta vẫn ăn mặc cực kỳ chỉn chu, áo sơ mi trắng thẳng nếp, áo gi-lê nâu vàng ôm sát người, những đường ly trên quần trông như vừa được là phẳng.
“Bản hợp đồng anh yêu cầu đã soạn xong, anh xem có thiếu sót gì không.” Jürgen đảo đôi mắt xanh qua, không hàn huyên mà đi thẳng vào vấn đề. Mái tóc nâu được chải ngược gọn gàng, hiện rõ độ sáng bóng của dầu vuốt tóc.
“Được thôi.” Klein để gọn batoong, cởi mũ và áo khoác rồi đi theo Jürgen vào thư phòng ở tầng một, nơi anh nhận được một bản hợp đồng dày cộp.
Anh đứng tại chỗ, tiện tay lật giở. Càng đọc thì đầu anh càng đau. Cuối cùng, anh chỉ lướt qua những điều khoản chính.
Những gì mình hy vọng đều đã có trong này, cũng như tăng thêm các điều khoản mà lần trước chưa bổ sung, chẳng hạn như không phải thanh toán một cục 100 Bảng cho Leppard, mà là chia thành ba đợt theo tiến độ, đợt đầu là 50 Bảng... Như vậy, trong thời gian tới, mình sẽ không phải đến Ngân hàng Backlund để rút 100 Bảng còn lại từ tài khoản vô danh, chỉ cần dùng tiền trên người là đủ… Klein gập tài liệu lại, mỉm cười với Jürgen, “Tôi rất hài lòng. Kỹ năng chuyên môn của anh tốt hơn tôi tưởng.” Vừa nói, anh vừa lấy ra hai tờ 1 Bảng đã chuẩn bị sẵn.
Jürgen nhận tiền, đưa cho Klein mấy phần hợp đồng còn lại, cẩn thận bổ sung bằng giọng nghiêm túc, “Nếu có sai sót trong lúc ký thì ở đây còn có hai bản sao dự phòng. Nhớ dùng máy hủy tài liệu để xử lý những bản hợp đồng còn lại khi mọi chuyện kết thúc.”
Máy hủy tài liệu hiện tại là một loại máy hủy cơ học quay bằng tay.
Klein định gật đầu thì bà lão Doris đột nhiên hét lên từ phòng ăn, “Các cậu bé ngoan, đến giờ ăn sáng rồi!”
“Thính giác bà tôi hơi kém.” Jürgen giải thích khi ra dấu mời Klein.
Klein đi theo anh ta vào phòng ăn, thấy bà lão Doris múc ra một muỗng chất lỏng đặc sệt màu vàng điểm xanh từ chiếc nồi đen, rồi đổ vào từng chiếc đĩa.
“Nào, thử món súp đậu củ cải đậm đặc này đi. Đây là bánh mì của cậu.” Bà lão Doris mỉm cười, chỉ vào thứ thức ăn đáng ngờ.
Klein liếc nhìn Jürgen, thấy mặt anh ta còn nghiêm túc hơn cả trước, tim lập tức thót lại. Anh ráng ngồi thẳng lưng, bẻ một mẩu bánh mì trắng, hơi nhúng vào thứ súp màu vàng điểm xanh lá sền sệt kia rồi liều lĩnh nhét vào miệng.
“...” Anh không khỏi ngạc nhiên phát hiện ra hương vị thực sự rất ngon, vị mằn mặn ẩn chứa vị ngọt kích thích sự thèm ăn, làm nổi bật độ mềm xốp thơm ngon của bánh mì, tạo nên các tầng hương vị rõ rệt.
“Bà tôi đã từng là một đầu bếp xuất chúng.” Jürgen bâng quơ nói khi từ từ thưởng thức bữa sáng của mình.
Vậy sao anh phải giữ bộ mặt nghiêm nghị thế... Nhìn anh ăn uống mà chả còn tí muốn ăn nào luôn... Klein oán thầm đôi câu trước khi đắm mình trong cảm giác thư giãn và hạnh phúc do món ngon mang lại.
Sau khi rời nhà Jürgen, Klein phải liên tục chuyển xe nhiều lần mới đến được phố Sird ở quận St. George, ký thỏa thuận chính thức với Leppard và thanh toán khoản đầu tiên 50 Bảng. Khoản tiền thứ hai là 30 Bảng sẽ được trả sau hai tuần, tùy thuộc vào tiến độ của đối phương.
Đến đây, Klein chỉ còn 21 Bảng 8 Soli trên người.
Anh trở lại quận Cherwood, đến thư viện công cộng, mượn đọc tờ "Thời Báo Tussock" trong một năm qua để tìm kiếm thông tin về đại sứ Intis tại Vương quốc Loen.
Đến gần trưa, cuối cùng anh cũng tìm thấy một bức ảnh đen trắng, xác định được rằng đó chính là người anh đã thấy thông qua thuật bói mộng.
“Bakerland Jean Madan.” Klein thầm nhẩm tên của vị đại sứ Cộng hòa Intis. Anh rời thư viện rồi chọn bừa một nhà hàng nhỏ để ăn trưa.
…
Ba giờ kém mười, Klein giả vờ nghỉ ngơi. Anh kéo rèm cửa, đi bốn bước ngược chiều kim đồng hồ, lên trên màn sương xám.
Điều đầu tiên anh làm là bói xem đơn vị đặc nhiệm của quân đội đã nới lỏng sự giám sát đối với bản thân chưa và nhận được kết quả khẳng định. Rồi, anh viết một câu bói toán mà anh đã nghĩ ra từ sáng: Thứ xâm nhập đêm qua.
Ngả người ra ghế, anh lẩm bẩm câu này. Mi mắt Klein trĩu xuống khi chìm vào giấc ngủ.
Trong thế giới hư ảo, vỡ vụn, mông lung và xám xịt, phòng ngủ Klein hiện ra. Đúng lúc này, anh trông thấy một bóng đen đang luồn lách qua khe hở dưới chân cửa!
Một con giun chỉ mảnh mai có màu sắt đen chui vào, phần giữa cơ thể liên tục uốn cong lên cao rồi duỗi ra, cứ thế lặp đi lặp lại trong khi tiến về phía bàn viết. Chuyển động của nó cực kỳ cứng nhắc, như một đoạn phim quay chậm bị giật cục, tạo nên cảm giác kỳ dị.
Con giun chỉ màu đen sắt bò đến trước bàn viết rồi trèo lên mặt bàn, để lại vệt chất nhầy nhanh chóng bay hơi dọc đường đi, trước khi dừng lại ở mẩu giấy ghi về Ian Wright. Đầu nó ngẩng lên trong khi phần giữa nhô cao, chỉ để lại cái đuôi để chống đỡ cơ thể. Vào lúc này, nó giống hệt như một con người!
Sau một hồi chăm chú quan sát, con giun chỉ màu sắt đen xoay tờ giấy lại, rồi quay về theo lối cũ, biến mất không còn tăm hơi.
Thì ra là vậy… Nói cách khác, kẻ xâm nhập đêm qua không phải là không muốn báo thù mình; hắn chỉ đơn giản là không có khả năng làm vậy… Trừ khi con giun đen như sắt này có độc tính mạnh… Klein gật đầu với vẻ thấu tỏ, rồi dùng phương pháp bói toán xác nhận rằng Kẻ Phi Phàm điều khiển con giun sắt đen đã làm theo chỉ thị của đại sứ Intis Bakerland Jean Mardan.
Xong xuôi, Klein phủ kín chiếc túi giấy ở trong góc bằng sương xám, rồi gửi một thông điệp cho "Mặt Trời" Derrick. Khi kim đồng hồ quả quýt đã vào đúng vị trí, anh kéo "Công Lý", "Người Treo Ngược" và "Mặt Trời" lên cùng một lúc.
Hội Tarot của tuần này sẽ diễn ra theo đúng lịch trình!
Trên màn sương xám quen thuộc, những bóng người mờ ảo hiện ra. Audrey, người đã thành công thăng cấp lên Danh Sách 8 hơi nhổm người lên, nhẹ nhàng nhấc váy và cất tiếng chào vui vẻ, “Chào buổi chiều, ngài 'Kẻ Khờ'. Chào buổi chiều, anh 'Người Treo Ngược'! Chào buổi chiều, cậu 'Mặt Trời'!”
Nhờ vào linh nhãn đã được kích hoạt sẵn và sự đặc thù của màn sương xám, Klein nhận thấy bề mặt "thể hồn", thứ ẩn sâu trong "thể sao linh" của tiểu thư "Công Lý" đã có sự thay đổi, màu sắc đã trở nên đồng nhất và tinh khiết hơn hẳn. Anh cất tiếng cười khẽ, “Hoan nghênh cô, tiểu thư 'Kẻ Đọc Tâm' của chúng ta.”
Audrey dè dặt cười, đáp lại vài lời khiêm tốn trước khi quay sang nhìn đối diện, “Anh 'Người Treo Ngược', đến lúc nộp sáu trang nhật ký của tuần này rồi.”
Biết đâu, khi ngài "Kẻ Khờ" đọc xong, ngài sẽ nghĩ tới điều gì đó và chia sẻ chút "thường thức" của ngài cho chúng ta… Khóe miệng nàng hơi cong lên, dáng vẻ đầy mong chờ.
Alger gật đầu, bắt đầu tái hiện sáu trang nhật ký Roselle với sự giúp đỡ của Klein.
Trước đây hắn từng nghĩ đến việc có nên xin ý kiến từ ngài "Kẻ Khờ", và dùng cách thức tế hiến để trực tiếp nộp phần nhật ký còn lại hay không. Tuy nhiên, thấy đối phương dường như không mấy hứng thú hay chủ động đề cập, hắn bèn từ bỏ ý định này. Điều đó rất phù hợp với nhận thức của hắn. Nhật ký Roselle chỉ có tác dụng nhất định với một thực thể tiệm cận thần linh như ngài "Kẻ Khờ". Ngài sẽ thu thập nhưng tuyệt đối không gấp gáp.
Sáu trang nhật ký nhanh chóng được hiện thực hóa. Khi Alger định dâng nó lên ngài "Kẻ Khờ" đang ngồi ở đầu chiếc bàn đồng, hắn bỗng nhớ ra điều gì, bèn vội vàng lên tiếng bằng giọng cung kính, “Thưa ngài 'Kẻ Khờ', tôi đã nghe được một tin liên quan đến Hội Mật Tu.”
Trên đại dương bao la, thông tin vẫn có thể lưu thông, chỉ là không đủ kịp thời mà thôi. Những tên cướp biển có tiếng cũng rất chú trọng mảng tình báo, thường xuyên cử người đặt chân lên các đảo thuộc địa để trao đổi thông tin. Từ kênh này, Alger đã biết được một sự việc liên quan đến Hội Mật Tu.
“Rất tốt.” Klein khẽ gật đầu, ra hiệu cho "Người Treo Ngược" trình bày, không hề kiêng dè sự hiện diện của tiểu thư "Công Lý" hay cậu bạn "Mặt Trời".
Điều này sẽ giúp người trước hiểu thêm về Hội Mật Tu, còn người sau có nghe cũng chẳng khác nào gió thoảng qua tai.
Đồng thời, anh để sáu trang nhật ký hiện ra trong tay mình.
"Người Treo Ngược" thong thả nói, “Hội Mật Tu có một vài mối liên hệ với Cộng hòa Intis.”
Cộng hòa Intis... Cũng đúng, Roselle Đại đế là người Intis, Zaratul đã tìm gặp ông ta ở Trier, thủ đô của Intis... Hội Mật Tu về sau cũng tham gia vào sự biến nổi tiếng ở Intis... Ừm, việc Hội Mật Tu đến tận bây giờ vẫn còn có những mối liên hệ nhất định với Cộng hòa Intis cũng không phải là điều đáng để ngạc nhiên… Klein đối chiếu trước sau, xác định thông tin mà "Người Treo Ngược" cung cấp là đúng.
A ha, trùng hợp thật đấy, mình sắp phải xử lý đại sứ Cộng hòa Intis này... Klein ngẩng lên nhìn ba thành viên hiện tại, thay vì cắm mắt vào nhật ký của Roselle ngay lập tức.
