Và thế là bọn tôi đã đặt chân an toàn đến quốc gia sa mạc Toweyezant.
Không ai thiệt mạng (dù thương tích thì đầy), và vẫn còn dư dả thời gian trước khi hội nghị bắt đầu.
Một phi vụ hoàn hảo.
Kết thúc ổn thỏa là tốt rồi.
“Đợi đấy. Khi nào ta còn sức, ta sẽ đấm ngươi một cái,” Kris nói từ trên giường.
Việc tung phép bảo hộ cho tất cả mọi người đúng lúc va chạm đã rút sạch ma lực của cô ấy.
Sau cú rơi đó, uy tín của tôi tụt thê thảm, nhưng của Kris thì lên cao ngất.
Vì cô ấy là một Tinh linh Quý tộc nên cả đoàn hộ tống trước giờ vẫn giữ khoảng cách, nhưng sau vụ này thì ai cũng thoải mái hơn nhiều khi lại gần.
Vài người thậm chí còn công khai nói rằng họ nợ mạng cô ấy.
Trong thâm tâm, Kris vốn là người tốt, nên được đối đãi như vậy ngay từ đầu mới phải.
Tôi nhất định sẽ cảm ơn Lapis đàng hoàng vì đã cho tôi mượn một thành viên trong tổ đội của cô ấy, nhưng tôi vẫn sẽ không giao Lucia lại đâu.
Giờ khi đã đến Toweyezant, nhiệm vụ hộ vệ của bọn tôi đã kết thúc.
Đám quan lại sẽ tiếp quản phần còn lại.
Chuyến đi này xem như đủ bộ rắc rối:
Nội gián, rồi kho báu bí ẩn.
Nhưng nghĩ lại, trước khi lên đường tôi đã nói với phó bang chủ của mình rằng:
“Không. Có thể sẽ có cướp, có thể có quái, có thể kho báu trồi lên, có thể thiên tai. Eva, tôi có thể sẽ gặp nguy hiểm chết người.”
Và rồi sao?
Chẳng có cái nào xảy ra cả.
Nội gián thì có đấy, nhưng chẳng gặp băng cướp nào.
Có rồng, nhưng tôi không phải xử lý chúng.
Có kho báu, nhưng không phải loại mới xuất hiện.
Có bão cát, nhưng tôi không chắc có nên gọi là thiên tai hay không.
Những điều tôi liệt kê chẳng cái nào ứng nghiệm.
Vậy có nghĩa là gì?
“Khoan? Lần này vận may đứng về phía mình sao?”
“Hả?!”
“Không, không. Đừng vội mừng. Lơ là là chết. Biết đâu còn chuyện xảy ra.”
“Ngươi có thôi kiểu nói gở đó đi không? Thưa ngài?!”
Kris với tay về phía tôi, cánh tay trắng muốt lộ trọn.
Trong một thoáng, tôi không hiểu cô ấy định làm gì, nhưng rồi tôi nhận ra.
Tôi cúi đầu xuống và ngoan ngoãn để cô ấy đấm một cái vô đầu.
Nếu Kris là người hùng của ngày hôm đó, thì đám Huyễn Ảnh là những anh hùng thầm lặng.
Tôi đi đến nhà trọ mà Sitri đã chỉ định.
Tôi mở cửa phòng lớn và thấy Lucia đang nằm bẹp trên giường, lườm tôi.
Cô ấy mặc đồ thoải mái, không khoác áo choàng như thường lệ.
Nhưng sắc mặt thì tệ thấy rõ.
“Đồ ngốc…”
Cô lẩm bẩm.
“Có vẻ giữ cho một con tàu to thế bay suốt 300 thước không phải chuyện dễ,” Sitri đã không còn quấn khăn giường nói khi mang vào một ly nước đá.
“Các anh lệch hướng quá xa, chúng em không thể để các anh đáp xuống ngay giữa sa mạc được.”
Thì ra Lucia đã điều khiển con tàu suốt 300 thước, vừa giữ nó khỏi rơi.
Tôi chẳng nhận ra gì.
Tôi còn đang vật vã chống lại cơn rung lắc.
“Ờ, ờ… Anh lúc nào cũng tin tưởng Lucia! Anh biết em sẽ xoay chuyển được mà!”
Thì ra vì thế mà chúng tôi đáp ngay gần điểm đến.
Hẳn là cực kỳ tốn sức, nhưng nhờ Lucia mà đoàn chúng tôi không có ai tử vong.
Nếu em ấy không cố gắng như vậy, chắc vài người bị thương đã không sống nổi.
Tôi ngồi xuống giường và tiện tay đưa lên vuốt đôi tai trắng trên đầu cô ấy, và bị đập ngay lập tức.

“Dừng lại,” cô yếu ớt phản đối.
Nhìn dáng vẻ đó, nếu tôi mà dám động vào cái đuôi, chắc cô ấy còn làm hơn cả đấm.
“Không có loại lọ ma lực nào giúp Lucy hồi phục được sau khi hấp thụ cái đuôi cả,” Sitri cười khổ.
“Và em ấy không thể tháo nó ra cho đến khi hồi phục xong. Có thuốc tăng lực tạm thời, nhưng tác dụng phụ nặng lắm.”
Chiếc đuôi và đôi tai nhô ra từ người Lucia là hiệu ứng phụ của Thần Hồ Chung Vĩ.
Sau lần gặp đầu tiên ở Mê Túc, Sitri đã nghiên cứu cái đuôi và giao nó cho Lucia.
Trải qua luyện tập, em ấy đã học cách rút ra một phần sức mạnh từ nó.
Thường thì cô giữ nó gắn vào một cây gậy để dùng như chổi, nhưng khi cạn ma lực, cái đuôi sẽ cung cấp lượng lớn năng lượng cho cô.
(Tôi không biết cô gắn nó vào người bằng cách nào, mà hỏi thì chỉ ăn đấm. Nhưng xem ra cô không cần cởi đồ để dùng nó.)
Cảm thấy tự ti vì đôi tai, Lucia chui luôn vào chăn che lại.
“Nhờ em chăm sóc em ấy,” tôi nói với Sitri.
“Có vẻ mọi chuyện tạm ổn rồi.”
Việc bảo vệ hội nghị sẽ do nhóm khác đảm trách.
Và dù có chuyện gì xảy ra, tôi cũng sẽ cố hết sức để không nhờ Lucia thêm điều gì nữa.
Thế là đủ.
Dù thiếu cô ấy, vẫn còn gã kiếm sĩ tràn đầy năng lượng.
Cậu ấy đang rong chơi đâu đó, nhưng tôi biết chỉ cần gọi là cậu có mặt.
Chúng tôi là một tổ đội, bạn bè sẽ tới khi tôi cần.
“Cứ tin ở em,” Sitri nhe răng cười.
Tôi tự hỏi câu đó có bao gồm cả Killiam đang tiều tụy kế bên hay không.
“Chuyến đi này cũng cực kỳ có lợi cho chúng em. Nhờ giao Killiam cho anh, nó đã thông minh và mạnh hơn.”
Tôi vẫn chưa hết sốc từ lúc thấy một Killiam gầy trơ xương chui ra khỏi giáp của Killigan.
“À, anh nhớ ra rồi,” tôi nói, “anh có quà cho Lucia.”
Lucia cựa quậy dưới chăn, đôi tai giật nhẹ.
Đây, giờ em sẽ có hai cái đuôi.
Tôi gật đầu hài lòng, rồi lôi cái đuôi mới ra khỏi túi mang theo.
—-
“Đ-Đợi đã! Nghe tao giải thích đã!”
Tôi kêu lên.
Tấm Thảm Bay phóng tới và đập tôi một phát trời giáng.
Tôi nằm ngửa ra, nó đấm tôi liên hồi, nhưng bị một tấm vải nện thì chẳng đau đớn gì.
Thậm chí còn hơi vui vui nữa.
Bị một cái Thảm ngồi cưỡi lên người vẫn là trải nghiệm điên rồ hơn rất nhiều so với chiều ngược lại.
“Tao xin lỗi rồi còn gì! Khi đó tao đâu còn cách nào khác! Tao cũng đâu có thích chuyện đó hơn mày!”
Có vẻ cái Thảm hư hỏng này vẫn còn tức vì tôi đã giao bạn gái (hay bạn trai?) của nó cho con cáo.
Nhưng tôi thật sự không còn lựa chọn nào khác.
Ai ở trong hoàn cảnh của tôi cũng sẽ làm y như vậy thôi.
“Tao có trách nhiệm bảo vệ hoàng đế,” tôi tiếp tục.
“Còn mày thì làm được gì ngoài trốn tít đằng sau?!”
Lời phân trần của tôi rơi tõm vào khoảng không.
Tôi thậm chí còn chẳng biết tai của một cái Thảm nằm ở đâu.
Nó quật vào má tôi.
Đúng là bi kịch, chúng tôi vừa mới bắt đầu hòa thuận thì chuyện này lại xảy ra.
Nhưng lỗi là ở tôi, nên tôi cứ để cái Thảm muốn làm gì thì làm.
Tôi nằm nghiêng, bị một Bảo Cụ đánh túi bụi, thì cửa mở và Kris bước vào.
Cô ấy không mặc chiếc áo choàng quen thuộc mà là một bộ đồ ngủ mỏng.
Tôi giơ tay lên đỡ những cú quật của cái Thảm.
Kris thoáng sững sờ, rồi vẻ nghiêm nghị hiện lên trên mặt.
“Đ-Đồ nhân loại yếu đuối! Ngươi đang làm cái gì vậy?! Thưa ngài?!”
“Cô thấy khỏe lại rồi hả? Ồ, tốt quá.”
“Ta đang hỏi ngươi. Thưa ngài.”
“Tôi nghĩ cô nên hỏi cái Thảm thì đúng hơn.”
Những tua rua viền mép của cái Thảm đang quật vào mặt tôi.
Tôi chẳng biết có sinh vật nào tấn công bằng tai, nên có lẽ tai của nó nằm ở chỗ khác.
Có lẽ tôi chẳng còn cách nào nữa.
Chơi vậy đủ rồi.
“Được rồi, được rồi, tao chịu. Tao sẽ mua cho mày một cái thảm mới. Loại nhìn vào là mê liền.”
Cái Thảm ngừng đánh nhưng vẫn ngồi chồm lên người tôi.
Tôi thở dài.
“Được. Được rồi, đồ vải vóc hay vòi vĩnh. Để tỏ lòng xin lỗi, tao sẽ mua cho mày hai, không, ba cái thảm. Thế được chưa? Mày tha cho tao chứ?”
Cái Thảm vỗ đầu tôi vài cái rồi bò xuống.
Có vẻ tâm trạng nó khá hơn rồi.
Thật sự, với kích thước của một tấm thảm chùi chân mà đòi hỏi như công chúa.
“Làm ơn. Ngừng giỡn giỡn lại đi. Thưa ngài.”
“Tôi biết nhìn thì thế nào, nhưng tôi không hề giỡn.”
Kris cau mày, thở dài, vẻ u tối ban nãy cũng tan đi.
Tôi để ý đôi tay chân trắng ngần lộ ra khỏi bộ đồ ngủ.
Tôi chợt nghĩ:
Các Tinh Linh Quý Tộc của rừng thì da trắng, nhưng ngoài sa mạc vẫn có Tinh Linh Quý Tộc da ngăm (tôi còn quen một người: Eliza).
Nếu Kris ở sa mạc đủ lâu, liệu cô ấy có rám nắng không?
“Nè, nghe ta nói, đồ nhân loại yếu ớt,” Kris cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi.
“Ta không phải đồng minh của ngươi, nhưng ta có mệnh lệnh của Lapis. Bất cứ điều gì bôi bẩn danh tiếng của ngươi cũng sẽ kéo uy danh của chúng ta xuống theo. Thưa ngài.”
“Rất chăm chỉ đấy, Kris.”
Nếu tất cả Tinh Linh Quý Tộc đều như cô ấy, thì có lẽ chuyện họ coi thường con người là điều hiển nhiên.
“Chúng ta vừa thoát hiểm xong đấy. Thưa ngài. Ta nghĩ chúng ta nên bàn về chuyện đó. Ngươi cũng nghĩ vậy đúng không? Thưa ngài?”
“Ừm. Tôi lại không thấy đó là thoát hiểm gì cả. Chúng ta về đây an ổn mà.”
“Là thoát hiểm! Ngươi đưa hai kẻ phản bội vào hàng ngũ của chúng ta! Thưa ngài!”
“À… chuyện đó thì… hơi sơ suất.”
“Ta sắp đánh ngươi đấy. Thưa ngài. Nếu ngươi có ý tưởng gì để tránh chuyện này lần nữa, ta rất muốn nghe. Giờ thì? Thưa ngài?”
“Không. Nhắc mới nhớ, tôi quên béng Telm và Kechachakka luôn rồi.”
Hai người đó không có trên phi thuyền sau khi chúng tôi rời đi.
Khả năng cao là họ vẫn còn trong kho báu.
Tôi chớp mắt, nghiêng đầu.
Kris xoa thái dương, thở dài với biểu cảm giống hệt Lucia.
—-
“Chúng ta đang ở đâu vậy?”
“Hee hee hee…”
Telm là thợ săn kho báu kỳ cựu.
Sau khi trở thành Pháp Sư, hắn lập tức trở thành thợ săn và gắn bó với con đường đó.
Sau đó lại biến thành Cáo, khiến kinh nghiệm của hắn càng thêm phong phú.
Nhưng thứ đáng sợ này là lần đầu hắn gặp.
Hắn chắc chắn rằng họ đã nhảy khỏi phi thuyền.
Họ định rút lui để tập hợp lại.
Nhưng khi bước ra khỏi cánh cửa đó, thứ họ nhìn thấy hoàn toàn ngoài dự đoán.
Lượng ma lực đậm đặc khiến Telm ngay lập tức nhận ra đây là một kho báu.
Không chỉ thế, nó vượt xa bất kỳ kho cấp 8 nào hắn từng vào.
Hắn chắc chắn đây không phải ảo giác.
Dù có bí ẩn đến đâu, Thiên Biến Vạn Hoá cũng cần thời gian để tạo ra một ảo cảnh đủ sức qua mặt Telm.
Điều này cũng giải thích vì sao phép của hắn vô hiệu.
Bước vào kho báu đồng nghĩa với việc chịu luật lệ mới.
Nơi này nguy hiểm, nhưng đứng yên không phải lựa chọn.
May mắn thay, những phép cường hóa của hắn vẫn còn dùng được.
Vô cùng thận trọng, cả hai bắt đầu thăm dò công trình.
Không gian rộng, trần cao.
Cảm giác bất an len lỏi.
Rõ ràng nơi này được xây cho nhân dạng người, nhưng lại không có dấu hiệu sinh tồn nào.
“Cẩn thận,” Telm nói.
“Chắc chắn phải có lối ra đâu đó.”
Kechachakka chỉ cười khúc khích đáp lại.
Hành lang kéo dài vô tận và còn rộng hơn cả phi thuyền họ vừa ở.
Không gian bị bẻ cong, điều không hiếm trong kho báu cấp cao.
Một thứ lạ lọt vào tầm mắt Telm, một bức họa.
Trên tường là bức tranh trừu tượng.
Telm tiến lại gần nhìn kỹ.
Ban đầu hắn không hiểu những nét vàng chéo nhau là gì.
Hắn nheo mắt.
“Một con cáo?”
Hắn lẩm bẩm.
“Heh heh!”
Nghe cảnh báo của Kechachakka, Telm lùi khỏi bức tranh.
Phía cuối hành lang, hắn thấy một bóng người nhỏ.
Một đứa trẻ mặc áo lễ trắng.
Là Huyễn Ảnh.
Gương mặt ẩn sau chiếc mặt nạ cáo trắng bóng, và ma lực tỏa ra từ nó vô cùng kinh khủng.
Khi nhận ra mình đang nhìn thứ gì, một luồng lạnh lẽo khó tả chạy dọc sống lưng hắn.
“Không thể nào. Chẳng lẽ đây là…”
Cửu Vĩ Ảnh Hồ, tên tổ chức bí mật mà Telm thuộc về được đặt theo tên một kho báu.
Kho đó từng chứa một thần hồ.
Bi kịch đã đưa người sáng lập tổ chức đối diện với thứ từng là thần.
Hắn sống sót, rồi đặt tên tổ chức theo sinh vật có uy lực khiến hắn say mê.
Họ chọn mặt nạ cáo làm dấu hiệu.
Chiếc mặt nạ mà người sáng lập mang về từ kho báu đó vẫn được dùng để chứng minh người đứng đầu tổ chức.
Kechachakka có vẻ căng thẳng, nghĩa là hắn cũng đã đi đến kết luận giống Telm.
Chuyện họ ở đây nghe thật phi lý.
Vị trí kho báu đó không chỉ bất định mà còn bị nghi ngờ có thật hay không.
Telm từng nghe rằng người sáng lập chưa bao giờ tìm thấy lãnh địa của thần hồ lần thứ hai.
May mắn thôi là chưa đủ để đến được đây.
Định mệnh phải ra tay.
Cuộc chạm trán này là ý chỉ của số phận.
Dù Telm không hề rời mắt một giây, đứa trẻ cáo vẫn biến mất lúc nào hắn không hay.
Rồi hắn nghe thấy một giọng phía sau:
“Chào mừng, những vị khách.”
“Gì—?!”
“Không cần cảnh giác thế đâu. Chúng ta đã nắm rõ tình cảnh của các ngươi, Telm Apoclys, Kechachakka Munk. Những con người đáng thương bị Ngài Thận Trọng ruồng bỏ.”
Hắn không có sự hiện diện.
Một thanh niên đeo mặt nạ cáo đứng phía sau họ, cứ như thể từ đầu đã luôn ở đó.
Chỉ cần nhìn lướt một cái, cả hai thợ săn đã hiểu họ tuyệt đối không thể thắng.
Đây là một tồn tại vượt xa họ.
Bản năng thúc giục Telm phải lùi lại, và hắn chỉ miễn cưỡng kìm được.
Buông tay lúc này vẫn còn quá sớm.
Người sáng lập đã để lại một lời căn dặn về kho báu này:
Đừng bao giờ từ bỏ.
Nếu có kẻ đã sống sót và mang chiếc mặt nạ về làm chứng, thì không có lý do gì Telm, kẻ được gọi là Chỉ Thuỷ không thể làm điều tương tự.
“Ngài là… thần sao?”
Hắn hỏi, cố kéo sự chú ý của Huyễn Ảnh.
Hắn có thể chạm vào nó.
Nhiều Huyễn Ảnh mang hình người cũng có cấu trúc như con người.
Nếu đúng như vậy, bên trong nó chắc chắn có nước.
Nếu Telm có thể chạm được dòng nước ấy, hắn có thể thao túng Huyễn Ảnh.
Với người đã nắm trọn nghệ thuật điều khiển nước như hắn, điều đó hoàn toàn khả thi.
Hắn chẳng còn lựa chọn nào khác.
“Các ngươi có thể yên tâm,” Huyễn Ảnh nói.
“Ở đây chúng ta rất công bằng. Ta sẽ bảo đảm an toàn cho các ngươi, nhưng ta muốn được đền bù.”
“Đền… bù?”
“Ta sẽ lấy thứ mà các ngươi trân trọng nhất. Đừng lo, trao đổi sòng phẳng. Ta đã thực hiện giao dịch tương tự với Ngài Thận Trọng rồi.”
Telm nhìn thấy hàng tá khe hở để tấn công.
Huyễn Ảnh không hề phòng bị.
Người thanh niên thấy hai vị khách vẫn giữ cảnh giác.
Hắn gật đầu, rồi chậm rãi cất lời:
“Ta sẽ lấy Thủy Thần Gia Hộ và Phản Long Chứng.”
Mồ hôi lạnh túa ra sau gáy Telm.
Huyễn Ảnh đang đọc suy nghĩ của họ!
Hai Bảo Cụ đó là cốt lõi trong mọi hoạt động của Telm và Kechachakka, và không tồn tại vật thay thế nào.
Nếu bị lấy mất, cả hai sẽ chẳng còn chút hi vọng đối đầu Huyễn Ảnh nữa.
“Sao nào?”
Huyễn Ảnh hỏi, nụ cười nở dưới chiếc mặt nạ.
“Nếu ta từ chối thì sao?”
Chỉ cần chạm được vào dòng nước bên trong.
Chỉ cần một ngón tay thôi là hắn có thể điều khiển Huyễn Ảnh và kết thúc tất cả.
Câu hỏi thách thức của Telm khiến Huyễn Ảnh bật cười nhẹ.
“Đương nhiên, các ngươi có quyền làm vậy. Như ta đã nói, chúng ta rất công bằng.”
—-
Tôi được phép đi kiểm tra hiện trường phi thuyền rơi để tìm Telm và Kechachakka.
Đi cùng tôi là Sitri toàn năng, và Killiam Smart, giờ chỉ còn bằng nửa kích cỡ ban đầu.
Hội nghị sắp đến, Toweyezant trở nên nhộn nhịp hơn bao giờ hết.
Tôi thấy ngày càng nhiều Hiệp sĩ và Pháp Sư đến từ các quốc gia khác.
Dưới vẻ náo nhiệt là một luồng căng thẳng âm ỉ.
Toweyezant là một đất nước rộng lớn, nhưng không mấy trù phú.
Tôi không rõ lịch sử của họ, chỉ nghe đây từng là miền đất chiến tranh triền miên, một lát cắt của địa ngục.
Hầu hết đều là khí hậu sa mạc, rất ít mưa.
Lương thực hiếm đến mức người ta phải tranh giành để sống.
Quái vật mạnh mẽ đặc trưng vùng này thì ở khắp nơi.
Mọi chuyện chỉ chấm dứt khi thời đại săn kho báu hoàng kim bắt đầu.
Toweyezant không phải vùng đất lý tưởng cho con người sinh sống, nhưng chính khí hậu này lại sinh ra những kho báu không nơi nào có.
Và ma lực vận hành theo địa mạch tạo ra nguồn năng lượng gần như vô hạn, miễn là có người đủ khả năng khai thác.
Thợ săn kho báu từ khắp nơi đổ về miền đất nghèo khó này để tìm những kho chưa ai đặt chân đến.
Nhiều thị trấn mọc lên để đón họ.
Người dân ngừng chém giết và đoàn kết. Và đó là cách đất nước này ra đời.
“Dù vậy, có vẻ chỉ một phần thành phố là phát triển,” Sitri nhận xét.
“Như em đoán, lương thực vẫn là yếu tố quyết định. Trong kho báu thì hiếm đồ ăn, mà nhập khẩu lại khó vì quái vật mọi nơi.”
“Nghe khổ thật,” tôi đáp.
“Họ đang cố trồng cây và phủ xanh, nhưng kết quả chẳng khả quan mấy,” Sitri giải thích với nụ cười.
Dù cũng mới đến vùng này như tôi, nhưng cô ấy lại biết nhiều đến kỳ lạ.
Chúng tôi rời khỏi thị trấn.
Con Hắc Tinh không thể di chuyển hay sửa nhanh, nên nó vẫn nằm nguyên nơi rơi xuống.
Sau mấy ngày mới được nhìn lại, phần khinh khí cầu phía trên đã xẹp xuống, khí thế oai vệ ban đầu biến mất không còn dấu vết.
Thân tàu, cắm nghiêng xuống đất, đã được đào lộ ra, nhưng trông còn rất lâu mới sửa xong.
Có lính canh, nhưng chúng tôi đã có giấy phép, nên cứ thế chui vào từ một khung cửa sổ vỡ.
Bên trong vẫn y như lúc đâm xuống.
Trước khi rời đi, tôi đã lục soát một lượt và không thấy dấu vết Telm hay Kechachakka.
Nhưng mắt tôi thì không thuộc dạng tinh anh, nên tôi nghĩ mang Sitri theo biết đâu tìm ra gì đó.
Chúng tôi cũng muốn thu hồi vật tư trên tàu, để lâu thì nóng sẽ làm hỏng, mà Hắc Tinh cũng chẳng còn nhiệm vụ chở hoàng đế về nữa.
Chúng tôi đã được phép thu hồi chúng.
“Cảm ơn rất nhiều!”
Sitri reo lên.
“Đất nước này lúc nào cũng thiếu lương thực với dược liệu.”
“Ờ thì vốn dĩ đó là đồ của các em. Liệu bù được tổn thất không?”
“Đương nhiên! Tất cả là nhờ anh, Krai!”
Nụ cười của Sitri kéo đến tận mang tai.
Cô ấy thật sự có tinh thần kinh doanh.
Hai chúng tôi (cộng với Killiam) bắt đầu kiểm tra kỹ bên trong phi thuyền.
Mắt Sitri sáng rực khi được thấy phi thuyền lần đầu.
“Nhắc mới nhớ,” tôi nói, “anh khá ngạc nhiên là các em không bị hút vào kho báu.”
“Chúng em đã thử bị hút vào rồi đấy chứ, nhưng không gom đủ tốc độ.”
“Hả?”
“Chúng em bị giảm tốc. Khi tới gần, Luke đã thử chém tạo lỗ từ bên ngoài, nhưng mọi nỗ lực đều vô hiệu với kho báu. Thế là không thể hội quân với anh.”
“Ờ, rồi sao nữa.”
“Có vẻ ranh giới của Mê Túc không được đánh dấu bằng rào chắn vật lý. Nếu dựa trên trải nghiệm đó, thì kiếm của Luke không thể tác động lên kẻ có khả năng bẻ cong không gian. Anh ấy bảo sẽ luyện thêm.”
“Ừ, chuyện đó cũng… thường thôi.”
Tôi gật gù, lòng nhẹ bẫng.
Nếu khi đó tôi gặp họ, thứ tôi quý nhất sẽ không phải là… cái Thảm, mà là bạn bè của tôi.
Tôi sẽ không bao giờ giao họ đi, và khi đó chỉ còn cách đối đầu Huyễn Ảnh trực diện.
Khoan đã, lý do tôi chỉ tìm thấy Lucia và Sitri là vì mấy người kia đi luyện tập hết rồi á?!
Đầu họ toàn cơ bắp chắc?!
“Anh đoán là Mê Túc vẫn còn quá sức với bọn mình,” tôi lên tiếng, hoàn toàn trong trạng thái thoải mái như chẳng có gì xảy ra.
“Nhưng để em nói rõ điều này, Krai!”
Sitri run giọng phản đối.
“Em đã chuẩn bị hoàn hảo! Em còn tính đến khả năng chạm trán Mê Túc nữa cơ!”
“Em giỏi thật đấy, Sitri,” cuối cùng tôi cũng đáp lại.
Nếu đã nghĩ đến khả năng đó, lẽ ra cô ấy nên nói với tôi.
Có khi tôi đã không phải khổ sở đến vậy.
Sitri có vẻ đang nghĩ mình mắc lỗi, nên tôi vỗ nhẹ lưng cô ấy.
Mà thật ra, dù cô ấy có sai đi nữa thì cũng chẳng là gì so với tôi.
Khuôn mặt Sitri dịu lại đôi chút.
Cô ngước mắt nhìn tôi, do dự hỏi:
“Vậy… Krai, đậu hũ chiên mà em chuẩn bị có hữu ích không?”
Hả?
Đậu hũ chiên?
Trên tàu có sao?
Tôi hoàn toàn không hay biết.
Nghe giọng cô ấy thì không giống đùa.
Mà cách cô ấy bồn chồn chờ lời khen khiến tôi hiểu là mình nên nói gì đó dễ nghe.
Ừ thì… tôi đáng lẽ nên xem danh sách hàng hóa, nhưng chẳng ai ngờ được lại có đậu hũ chiên ở trong đó!
Tôi quyết định né chủ đề.
Tôi xoa đầu cô ấy, để mái tóc mềm mượt luồn qua ngón tay mình.
Đôi mắt cụp của cô bớt lo lắng hơn.
“Ừ, nhờ nó mà anh thoát được đấy,” tôi nói.
“Nghiêm túc luôn. Nếu không có đậu hũ chiên đó, uh… anh chắc toi đời rồi.”
“Anh từng dùng nó để thoát khỏi Mê Túc lần trước, nên em chắc chắn nó sẽ hữu dụng. Trời ơi, mừng quá. Ở Zebrudia đâu có món đó phổ biến, em còn mất công mới tìm được mà.”
Tôi không thể để cô ấy biết là tôi thậm chí còn chẳng phát hiện ra đậu hũ.
Không thể làm gì khiến nụ cười của cô ấy tắt đi được.
Sitri là thứ tôi trân quý nhất.
Đúng thế.
Là Sitri.
Tôi đã làm hỏng chuyện rồi.
Tất cả là lỗi của tôi.
“À, để chuẩn bị cho lần sau,” cô tiếp lời, giọng đầy phấn khởi vì được công nhận.
“Năm thùng có đủ không?”
“Năm?! Ơ… ừm… khó nói lắm?”
Năm thùng đậu hũ chiên thật sự cần thiết sao?
Cô ấy định mở tiệc hay gì vậy?
Trong lúc nghe Sitri vui vẻ huyên thuyên, chúng tôi nhìn quanh khoang tàu.
Tôi chẳng thấy Telm, Kechachakka hay bất kỳ dấu vết nào của họ.
Dự đoán ban đầu của tôi rằng họ vẫn còn trong kho báu càng lúc càng có lý.
Nhưng nếu họ ở trong đó thật, tôi cũng chẳng có cách nào xác nhận.
Rồi đôi tai vô tâm của tôi nghe thấy một tiếng động rất nhỏ.
Nó phát ra từ khu chứa hàng.
Bình thường, khu đó dành cho hành lý, nhưng hầu như toàn bộ đã được tôi dùng để chất đồ ăn mình mang theo.
Chỗ đó chẳng phải nơi trốn tốt chút nào.
Sitri chậm rãi rút khẩu súng nước, còn Killiam giơ đôi tay thon dài lên thủ thế.
Tôi thì có Nhẫn Kết Giới, nên tôi đi trước.
Tôi mở cửa và thò đầu vào nhìn.
Kho hàng trông vẫn như lần cuối tôi thấy.
Khác với hành lý ở các phòng khác, những thùng ở đây đã được cố định lại để tránh ngã.
Núi thùng chất vô tội vạ trông chắc chắn, chẳng dễ gì đổ sập.
Tôi bước vài bước thận trọng.
Nhìn quanh mà chẳng thấy gì bất thường.
Có lẽ tiếng động đến từ bên ngoài.
“Ổn cả,” tôi nói với Sitri.
“Có vẻ chỉ là tưởng tượng thôi—”
Không một tiếng động, nắp của chiếc thùng lớn trước mặt tôi trượt mở.
Thứ đầu tiên tôi thấy là một hình tam giác trắng.
Khi nắp bật ra hẳn, một dáng người nhỏ nhắn đứng lên.
Trước mặt tôi là một cô bé mặc áo lễ trắng, đeo mặt nạ cáo.
Trên tay là một miếng đậu hũ chiên to tướng.
Tôi chỉ biết chớp mắt đầy bối rối.
Dùng đũa đi.
Ăn bằng tay là bất lịch sự.
Bóng ma ấy nhìn tôi, bình thản nhai đậu hũ.
Tôi mỉm cười, bước đến, ấn đầu nó xuống và đóng nắp lại.
Hít sâu, tôi nhấc thùng lên.
Thùng gỗ thì nặng thật, nhưng ngoài trọng lượng của nó ra, tôi chẳng cảm thấy thêm gì cả.
Bởi vì thùng hoàn toàn trống rỗng.
Không có gì bên trong hết.
Tôi quay sang Sitri và cười:
“Ổn rồi. Chúng ta mang mấy thùng này ra ngoài nhé? Có khi 5 thùng vẫn chưa đủ đâu.”
Có lẽ tôi bị ảo giác vì nóng.
Hoặc vì căng thẳng.
Tôi cần một ly nước mát và chơi với tấm Thảm.
Tôi chỉ muốn nhanh chóng dỡ đồ và rời khỏi đây.
“Một… một tù binh?”
Sitri nói.
“Krai, anh không bao giờ khiến em hết kinh ngạc. Em không thể nào làm được chuyện đó đâu.”
Chết rồi, Sitri đang tưởng tượng quá đà.
Còn tôi thì phải làm gì với chuyện này đây?
Sao “em gái cáo” lại xuất hiện ở đây?!
“Ý em là nếu bắt được cáo thì tốt, nhưng em muốn nói đến tội phạm, không phải… Huyễn Ảnh…”
Sitri nói.
Ừ thì, đâu phải tôi mang Huyễn Ảnh từ cái kho hồi đó đến đây.
Trong thùng vang lên tiếng động rầm rì.
Nghe như “Em gái cáo” (tôi chẳng biết tên nó, nên gọi vậy cho tiện) đang nhồm nhoàm ăn đậu hũ.
Sitri bình thường lúc nào cũng cười, mà giờ mặt còn tối lại.
Và tôi vẫn chẳng biết phải xử lý con cáo này sao cho ổn.
Huyễn Ảnh của Mê Túc đâu phải thứ có thể xem nhẹ.
Hầu hết Huyễn Ảnh không rời kho vì không thể tồn tại lâu bên ngoài, nhưng có vẻ quy tắc đó chẳng áp dụng cho cô cáo này.
“Hay là Lucia dùng cái đuôi xem?”
Tôi đề xuất.
“Kiểu… nếu em ấy có tai cáo, biết đâu Huyễn Ảnh tưởng là đồng loại?”
“Em nghĩ như vậy chỉ khiến em ấy đấm anh thôi,” Sitri nói.
“Hmm. Nếu chỉ một con, có khi chúng ta hợp lực vẫn hạ được.”
Nắng gay gắt đổ xuống đầu chúng tôi.
Hơi nóng làm cảnh vật méo mó.
Cái thùng thì bình thản đến kỳ lạ, dù chúng tôi đang bàn chuyện tiêu diệt sinh vật bên trong.
Ờ… tôi không chắc mình có thể ra tay với thứ chẳng làm hại ai.
“Anh hết cách rồi,” tôi thở dài.
“Đúng vậy. Em có thể thử bỏ nó vào máy xay, nhưng có khi chỉ làm máy hỏng.”
“Hả? Máy xay gì?”
“Em đang làm thí nghiệm nghiền Huyễn Ảnh thành dung dịch ma lực. Thường thì chúng tan vào không khí—”
“À, được rồi. Anh hiểu rồi.”
Trong hai “em gái”, thì em Smart mới thật sự nguy hiểm.
Theo tôi thấy, cách nhanh nhất là để Mê Túc tự đến thu hồi.
Chúng tôi rẽ vào một con hẻm kín đáo, nơi tôi đặt thùng xuống.
Tôi hít một hơi, từ từ mở nắp.
Tôi cầu mong bên trong trống rỗng, nhưng ở đó vẫn là Huyễn Ảnh, lặng lẽ ôm đầu gối.
Cô ta không có tai hay đuôi thú.
Nhìn qua cứ như người đeo mặt nạ, nhưng hiện diện lại chẳng giống con người chút nào.
Tôi lấy hơi rồi hỏi:
“Này, cô có thể liên lạc với Mê Túc không?”
Và tại sao cô lại ở đây ngay từ đầu?
Vô lý quá rồi.
Mang đậu hũ về nhà đi chứ!
Em gái cáo không nói gì, nhưng một lúc sau, cô thò tay vào túi và lấy ra một tấm bảng nhỏ màu xanh lá, cỡ quyển sổ tay.
Bề mặt nhẵn, và khi cô chạm vào phần đen, những con số hiện lên.
Có vẻ nó đang hiển thị thời gian.
Mắt tôi mở to.
Tôi nhận ra thứ đó.
Tôi biết chính xác nó là gì!
“Đó là Điện thoại Thông minh.”
“Điện thoại á?”
Sitri nghiêng đầu.
“Loại để nói chuyện ấy hả? Nhưng nó chẳng giống chút nào.”
Điện thoại là thiết bị liên lạc chỉ dùng ở những quốc gia có công nghệ phát triển.
Chúng vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm và còn nhiều hạn chế khiến việc phổ biến trong đế quốc trở nên khó khăn.
Nhưng về cơ bản, chúng giống như một loại Cộng Âm Thạch, có thể dùng để liên lạc với nhiều nơi khác nhau.
Và Điện thoại Thông minh là vật phẩm từ Kỷ Nguyên Vũ Khí Vật Lý, sở hữu chức năng tương tự!
“Nhưng dù sao thì đây cũng là Bảo Cụ,” tôi nhắc Sitri.
“Mỗi máy có một mã riêng. Chỉ cần nhập mã của người muốn liên lạc là có thể nói chuyện từ khoảng cách rất xa.”
“Nhưng chỉ có thể gọi cho người cũng sở hữu Bảo Cụ đó, và còn phải biết mã số của họ nữa?”
“Đúng. Nên về mặt tiện dụng thì kém hơn Cộng Âm Thạch. Thế mà mấy món này lại bán được giá cao cho giới sưu tầm cuồng nhiệt.”
Chưa kể, đây còn là dạng Bảo Cụ khá kỳ quặc, sở hữu nhiều lỗi vặt.
Ví dụ:
Nếu đem ra xa khu dân cư, nó sẽ hiện “mất sóng”.
Hoặc chỉ cần rơi xuống đất hay rơi vào nước là hỏng ngay.
Mặc dù tôi rất muốn có một chiếc Điện thoại Thông minh, nhưng cũng chẳng có ý nghĩa gì vì chẳng ai trong bạn bè tôi có nó.
Tôi không biết tại sao “Em gái cáo” lại sở hữu một cái, nhưng có lẽ Mê Túc có nguồn gốc từ Kỷ Nguyên Vũ Khí Vật Lý.
“Anh hiểu biết thật đấy, Krai,” Sitri nói.
Cô nhìn tôi với ánh mắt đầy ngưỡng mộ, dù tôi thực ra chẳng biết bao nhiêu.
Nhưng ánh nhìn say mê đó khiến tôi không nhịn được mà tiếp tục khoe mẽ.
“Anh đoán đây là mẫu mới,” tôi nói.
“Phiên bản mới có trang bị máy bắt bóng. Nhỏ thôi, nhưng tính năng thì nhiều.”
“Ra vậy. Nó có thể làm được những gì?”
Tôi chỉ nghe đồn thôi, rằng có rất nhiều loại Điện thoại Thông minh với chức năng khác nhau.
Nhưng theo lời kể thì chúng có thể làm đủ thứ, giống như một cây trượng phép.
“Máy bắt bóng có thể bắn tia ma lực diệt quái. À, còn có thể giữ lạnh đồ ăn nữa. Người ở Kỷ Nguyên Vũ Khí Vật Lý dùng Điện thoại Thông minh như công cụ bảo vệ bản thân, nên nó rất hữu dụng trong đời sống hằng ngày. Đúng là một Bảo Cụ đa dụng.”
“Nó có thể làm mọi thứ? Vậy… kết hôn chẳng hạn?”
“Ừ, chắc vậy.”
Đột nhiên, Em gái cáo chồm tới, giật chiếc Bảo Cụ khỏi tay tôi.
Cô ta im lặng chạm lên màn hình rồi đưa lại cho tôi.
Trên đó hiện chữ “Đang gọi”.
Động tác của cô ta thuần thục đến mức gần như đẹp mắt.
Trông rất ngầu.
“Woah. Cô là dân chuyên Điện thoại Thông minh à? Cô làm tôi thua trắng rồi đấy,” tôi nói với Huyễn Ảnh.
“Có lẽ tôi cũng phải sắm một cái thôi.”
Lần đầu tiên, Em gái cáo lên tiếng:
“Đồ nhà quê. Nhục ghê.”
Giọng cô ta đều đều, nhưng phần cổ đỏ bừng và cơ thể khẽ run.
“Chết thật,” tôi nói.
“Có vẻ như anh trai cô không định đến đón đâu.”
Khi tôi nói lại kết quả cuộc trò chuyện với Anh trai cáo,
Em gái cáo chẳng tỏ vẻ bận tâm chút nào.
Nghe bảo anh ta đang rất bận.
Khi nghe giọng tôi, anh ta chỉ đáp:
“Ugh.”
Ugh.
Anh ta nghe có vẻ vô cùng phấn khích khi bảo rằng cuối cùng cũng có “kẻ xâm nhập” đúng nghĩa.
Và “kẻ xâm nhập” ấy chính là Telm và Kechachakka.
Qua giọng điệu đó, có vẻ hai người họ chẳng khá khẩm gì.
Thế là tôi bớt được một mối lo.
“Tôi đoán anh ta thích kiểu không can thiệp. Có lẽ Huyễn Ảnh và con người có cách suy nghĩ khác nhau.”
Anh ta thậm chí còn chẳng nhờ tôi chăm sóc em gái mình.
Về chuyện Thảm, anh ta bảo đó là lỗi của anh, nhưng nghe chẳng giống đang giận.
Ừ, tôi chắc chắn Huyễn Ảnh nhìn thế giới theo cách khác chúng tôi.
Trong lúc tôi còn đang nghĩ ngợi, Huyễn Ảnh nhỏ mở một cái túi và lôi ra thêm đậu hũ chiên.
Bên trong thùng toàn là giấy gói bị vứt bỏ.
Cô ta nhấm nháp theo nhịp điệu kỳ bí chẳng ai hiểu nổi.
“Ơ… đậu hũ chiên có phổ biến ở đế quốc không?”
Tôi hỏi.
“Không,” Sitri trả lời ngay lập tức.
Em gái cáo khựng lại, miếng đậu hũ ăn dở rơi khỏi tay.
Dĩ nhiên nó không phổ biến.
Sitri đã phải rất nỗ lực mới tìm được, còn tôi thì chẳng nghĩ được nước nào dùng nó làm món ăn thông dụng.
Tôi bắt đầu tự hỏi Huyễn Ảnh này sẽ ra sao khi hết đậu hũ.
Và tại sao cô vẫn chưa chịu về nhà?
Cô bay được mà, đúng không?
Nếu không bay được thì… à, đúng rồi.
Lucia không muốn cái đuôi mới đó, vậy cô có thể dùng nó để bay.
Một công đôi việc.
Tôi mệt và cảm thấy thật ngốc khi phải lo mấy chuyện này.
Đúng lúc tôi nghĩ mình muốn thu dọn và về nhà, tôi cảm thấy có ai kéo áo mình.
Tôi quay lại và thấy Em gái cáo đang níu tôi.
Cô ta không nói gì, nhưng vẻ đáng thương hiện rõ.
Mà điều đó cũng chẳng khiến tôi phù hợp với vai trò người trông trẻ… à không, trông Huyễn Ảnh hơn.
Một Huyễn Ảnh mà mê đậu hũ chiên?
Thôi đi tìm “vương quốc đậu hũ chiên” nào đó đi.
Cô ta đưa tay vào túi.
Khi rút tay ra, cô đang cầm một tấm bảng bạc, một chiếc Điện thoại Thông minh khác.
Cô ta có thể dùng hai tay song kiếm ư?!
Trong lúc tôi còn đang sửng sốt, cô ta đưa chiếc Bảo Cụ thứ hai cho tôi.
“Cầm lấy,” cô ta nói.
Tôi cảm thấy xấu hổ đến độ núi cũng không cao bằng, biển cũng chẳng sâu bằng.
Nhớ đi, Krai Andrey, mày là thợ săn.
Bảo vệ kẻ yếu cũng là một phần công việc.
Cô ấy là Huyễn Ảnh, nhưng không phải loại xấu.
Tôi thấy tội cho cô ấy, vì đã lạc vào thế giới con người.
Tôi cố nghĩ một cách giải quyết cho tất cả.
Tôi chắc chắn phải có một cách.
Đây là lúc đánh thức sức mạnh tiềm ẩn vẫn còn ngủ quên trong tôi.
Tôi bỏ Điện thoại Thông minh vào túi, cố cưỡng lại ham muốn nghịch nó.

“Ừ thì… bỏ mặc cô giữa đường sau khi lặn lội tới tận đây thì tôi thấy vô trách nhiệm quá,” tôi siết chặt tay nói.
“Tôi nghĩ ra cách để ai cũng được vui rồi.”
—-
Nắng trời như thiêu như đốt, trút xuống vùng hoang mạc Toweyezant khô cằn đến nứt nẻ.
Đám đàn ông đang làm việc ngoài trời, áo khoác che da thịt khỏi cái nóng ngột ngạt.
Nhưng lúc này họ đứng cả lại, gương mặt sạm nắng ngước nhìn bầu trời không một gợn mây qua đôi mắt nheo lại.
Nơi này từng là vùng đất của chiến tranh triền miên.
Sự đổ bộ của các thợ săn kho báu đã khiến người dân Toweyezant buộc phải đoàn kết, nhưng điều đó không thay đổi được sự thật rằng phần lớn lãnh thổ của họ vẫn không thể sử dụng, chủ yếu vì thiếu nước.
Một năm đếm được chưa tới vài lần mưa, và biên độ nhiệt giữa ngày và đêm thì khắc nghiệt kinh người.
Bão cát dữ dội nuốt chửng lữ khách.
Quái vật thích nghi với khí hậu tàn nhẫn thì lởn vởn khắp nơi.
Ngay cả việc làm đường cũng gần như bất khả thi.
Tài sản duy nhất của Toweyezant nằm ở số ít thành phố xây quanh các ốc đảo lớn.
Còn lại, những nơi khác thậm chí chẳng có đủ lương thực để sống.
Những người đàn ông đang lao động kia chính là một phần tổ chức mang sứ mệnh cứu lấy quốc gia này.
“Khỉ thật, cái cây này cũng sắp không qua nổi nữa rồi,” một người lầm bầm.
Một ngày tệ hại nữa.
Họ đang làm việc cách thủ đô chừng 10 cây số, trong ngôi làng được xây trên đường mạch.
Họ đang theo đuổi giấc mơ mà cả vùng hoang mạc khao khát từ lâu, phủ xanh.
Trên lớp đất đỏ gỉ sét, những cây gầy gò được trồng theo hàng lối đều đặn.
Nhưng chúng chẳng khỏe mạnh chút nào.
Lá thì úa nâu, cành thì mảnh bằng ngón út.
Người dân trong làng mang vẻ mặt nặng trĩu.
Khí hậu của Toweyezant vốn chẳng nhân nhượng với cây cối.
Nước hiếm, đất thiếu dưỡng chất.
Thứ thực vật duy nhất có thể sinh tồn chỉ là những cây xương rồng ăn thịt quái vật.
Ngay cả các pháp Sư lão luyện cũng khó mà đem mưa về vùng đất này.
Hy vọng duy nhất nằm ở ma chất có thể thúc đẩy sự sống.
Tác dụng của nó không chỉ dành cho con người hay quái vật.
Bằng cách trồng cây dọc theo các đường mạch, nơi ma chất luân chuyển, chúng có thể được tiếp sức, tăng khả năng sống sót.
Và đó là lựa chọn cuối cùng của Toweyezant.
Tỷ lệ thành công chưa từng nghiêng về phía họ.
Hoang mạc thiếu nước, thiếu tài nguyên, thiếu cả công nghệ.
Dù đã chiêu mộ được pháp Sư tài năng, thành quả cũng chỉ là tạm bợ.
Dù có trở thành công cốc, dù những người tham gia phủ xanh đã chẳng còn niềm tin, họ vẫn không thể làm gì ngoài bám víu vào sợi hy vọng mong manh nhất.
Khát vọng được thấy màu xanh lớn đến mức như vậy đấy.
Nơi thủ đô, người ta đang rôm rả về hội nghị gì đó, nhưng chẳng liên quan gì đến nhóm đàn ông đang vật lộn ngoài này.
Họ gắng gượng thúc ép cơ thể mệt nhoài, tiếp tục trận chiến với vùng đất cháy khô.
Và rồi người đó xuất hiện.
Hắn mặc chiếc áo sặc sỡ để lộ cánh tay.
Làn da trắng đến chói mắt, bằng chứng rõ ràng hắn không phải người vùng hoang mạc.
Hắn không mang vũ khí, chẳng có vẻ gì là người đủ khả năng vượt qua khí hậu khắc nghiệt.
So với dân làng vốn sống nhờ hấp thụ ma chất, và càng không thể so với thợ săn, sự hiện diện của hắn thật yếu ớt và lạc lõng.
Thị trấn buồn tẻ này chỉ tồn tại vì mục tiêu phủ xanh, nên hiếm khi có khách vãng lai.
Nhưng khi người đàn ông đó dắt theo một đứa trẻ và một mỹ nữ phía sau, được đưa đến gặp người đứng đầu tổ chức, hắn tự giới thiệu mình là thợ săn cấp 8.
“Chúng tôi sẽ dựng một miếu nhỏ rồi cho các người mượn một vị thần,” hắn nói, vẻ mặt bất đắc dĩ mà hiền hòa.
“Như thế đất đai ở đây sẽ trở nên màu mỡ thôi.”
Nghe thật hoang đường.
Nhưng danh hiệu cấp 8 thì nặng ký, và hắn có giấy chứng nhận đàng hoàng.
Bằng cấp của hắn ngang với thợ săn mạnh nhất Toweyezant.
Dù trông chẳng ra gì, thành tích của hắn quá lớn để phớt lờ.
“Cho cô ấy ăn đậu hũ chiên mỗi ngày một phần là cô ấy sẽ làm giúp,” thợ săn mang tên Krai Andrey nói với đám dân làng đang chết lặng.
“Ba phần,” cô bé mang mặt nạ hồ ly kéo tay hắn chỉnh lại.
“Ba phần,” Krai lập tức đổi lời.
“À, còn chuyện này nữa. Nhờ mọi người chôn thứ này xuống. Chôn thật sâu, rồi nén đất kỹ vào, được chứ?”
Cô gái tóc hồng trợn tròn mắt.
“Krai, phí của trời mà!”
Cô than trời.
Trong chiếc hộp vị “anh hùng” đưa ra, là một cái đuôi trắng bí ẩn.
—-
Với cảm giác hoàn thành trọn vẹn, tôi ngước nhìn bầu trời.
Ánh nắng rực rỡ đổ xuống từ nền xanh thăm thẳm, vậy mà tôi lại thấy dễ chịu lạ thường.
“Mọi chuyện giải quyết xong hết rồi,” tôi nói.
Em Hồ Ly, cùng trách nhiệm cung cấp đậu hũ chiên, đã được “chuyển giao” cho những người thực sự cần sức mạnh của cô.
Tôi cũng xử lý luôn cái đuôi.
Chôn sâu đến mức ấy, tôi chắc nó sẽ hòa vào đất mà biến mất.
Và trên hết, tôi đã có được một Điện thoại Thông minh.
Tôi đang sung hơn bao giờ hết.
“Đôi lúc, em không hiểu anh nghĩ gì,” Sitri nói.
“Bọn mình có thể dùng cái đuôi đó mà.”
Em Hồ Ly là một trong những Huyễn Ảnh cơ bản nhất trong kho của cô ấy, nhưng với mắt nhìn của con người thì sức mạnh của cô vẫn chẳng khác gì thần thánh.
Tôi không biết chính xác cô có thể làm được gì, nhưng khiến mưa rơi nghe hoàn toàn khả thi.
Và nếu không, cô vẫn có thể bảo vệ ngôi làng khỏi môi trường khắc nghiệt.
Với một Huyễn Ảnh, cô học nhanh đến đáng sợ.
Ah… làm việc tốt đúng là thấy khoan khoái.
“Không phải có lỗi gì, nhưng anh nghĩ nên tặng họ số lương thực còn dư trên khinh khí hạm,” tôi nói thêm.
Tôi nghe bảo gây dựng cây cối trong hoang mạc là công việc tàn phá thể lực, mà người dân kia thì gầy đến xót ruột.
Đồ dự trữ tuy toàn thức ăn khô, nhưng còn hơn không.
Biết đâu trong mấy thùng còn sót ít đậu hũ chiên.
“Như anh muốn,” Sitri đáp, giọng phụng phịu, hiếm thấy ở cô nàng.
“Cái đuôi đó quá nguy hiểm để đem ra thí nghiệm.”
“Thế mà anh lại đưa cho dân làng?”
“Đấy lại là chuyện khác.”
Tôi không “đưa”.
Tôi vứt bỏ.
Tôi đem cái đuôi, và toàn bộ trách nhiệm đi kèm ném xuống một cái hố.
Đồ nào không biết xử lý thì chôn sâu xuống đất.
Giờ chỉ còn nghĩ ra lý do nghe xuôi tai nữa là xong.
Đúng lúc đó, chiếc Điện thoại Thông minh mới của tôi phát ra âm báo.
Tôi rút nó ra thật nhanh và chạm vào màn hình.
Tôi đang nhận cuộc gọi từ Anh Hồ Ly.
Ảnh được tự động thêm vào danh bạ.
Không biết ảnh muốn gì.
Tôi chần chừ ấn nút, và màn hình sáng rực lên.
Gần nửa đêm, tôi đang lang thang trong phòng thì nhận được cuộc gọi từ Franz, và tôi kéo Kris theo cùng.
Đây là lần đầu tiên chuyện này xảy ra trong vài ngày gần đây, nhưng tôi cũng quen với kiểu triệu tập bất thình lình của hắn rồi.
Có vẻ như Franz cũng quen luôn với việc nhìn thấy tôi trong bộ Kỳ Nghỉ Hoàn Hảo.
“May mà cậu đến được, Thiên Biến Vạn Hoá,” hắn nói, rồi quay sang người của mình.
“Rút lui.”
Theo lệnh hắn, toàn bộ cận vệ hoàng gia trừ Franz đều rời khỏi phòng.
Như mọi khi, chỉ còn lại hắn, hoàng đế và cô công chúa đế quốc nhút nhát.
Tôi cũng mơ hồ đoán được mình bị gọi tới vì chuyện gì.
Nhưng Franz không có vẻ gì là nổi giận, nên tôi tạm kết luận họ vẫn chưa lần ra vụ Em Hồ Ly và mớ hỗn loạn kia.
“Thời gian trước hội nghị không còn nhiều,” Franz nói tiếp.
“Trước hết, ta phải cảm ơn vì cậu đã giữ an toàn cho Bệ Hạ. Chúng ta gọi cậu đến để bàn về nhiệm vụ này, và cả tương lai.”
Tương lai hả?
Nghe hợp lý đấy.
Nghĩ lại thì đúng là điều này giải thích tại sao Kris lo thắt ruột.
Vẻ mặt Franz trở nên nặng nề.
“Vì cậu đã đưa thành viên của tổ chức Cửu Vĩ Ảnh Hồ khét tiếng vào nhiệm vụ này, nên Hắc Tinh, một trong những bảo vật quý giá nhất của đế quốc, đã bị rơi. Theo luật đế quốc, thất bại kiểu này phải chịu hình phạt nghiêm khắc. Dù với mục đích gì, lợi dụng Bệ Hạ làm mồi nhử kẻ địch là tội không thể tha thứ, và dẫn dắt chúng ta vào một kho báu còn là chuyện chưa từng có tiền lệ.”
Đa số quý tộc đều hạch sách và chẳng mấy khi để tâm đến dân đen.
Luật đế quốc rất hà khắc, và tôi từng nghe vô số chuyện quý tộc hành xử thô bạo khiến dân thường bật khóc.
Nhưng những gì hắn nói… nghe cũng có lý.
“Ra vậy,” tôi đáp.
Nhưng nếu cho tôi nói thì, tôi đâu có dùng hoàng đế làm mồi nhử, cũng chẳng dẫn ai vào kho báu.
Tôi biết họ chẳng tin đâu, nhưng nếu tôi có tội gì thì đó là… kém năng lực.
“Khoan đã! Thưa ngài! Đúng là tên nhân loại yếu nhớt này đã làm quá, nhưng cuối cùng chúng ta cũng đến nơi an toàn. Hắn đưa Hồ Ly theo là để dụ bọn chúng lộ mặt. Xét theo hướng đó, ta nghĩ mức xử phạt nên—”
“Không. Tôi chỉ là không hề biết họ là Hồ Ly.”
“Hả?!”
Xin lỗi vì tôi dở việc.
Nhưng theo tôi thì… ai mà nghĩ một tổ chức nguyền rủa bí ẩn nổi tiếng lại có khủng bố trà trộn trong hàng ngũ được chứ?
Còn Kechachakka thì quá đáng ngờ.
Ai lại đi nghĩ một kẻ đáng ngờ đến mức đó… thật sự là kẻ xấu?
Và chẳng phải Franz mới là người có vấn đề nếu hắn và người của hắn chấp nhận đội của tôi mà chẳng hỏi han gì sao?
Trong lúc tôi âm thầm chuyển hết trách nhiệm đi chỗ khác, hoàng đế lên tiếng hỏi tôi: “
“Hmm. Thiên Biến Vạn Hoá, theo cậu thì thất bại lớn nhất của chúng ta là gì?”
Trong mắt ông ta là sự nghiêm túc tuyệt đối.
Tôi có thể kể ra hàng loạt thất bại lớn, nhưng phải cân nhắc kỹ.
Tôi có cảm giác dù trả lời thế nào thì cũng sẽ bị quát.
Không còn lựa chọn nào hay hơn, tôi thở dài rồi đáp:
“Có rất nhiều thất bại, nhưng lớn nhất… là chúng ta quá xui.”
“Hả?! Ý cậu là cái quái gì vậy?!”
Ờm… còn có thể là gì nữa?
Tôi không nói sai, nhưng công nhận câu trả lời này không phải câu trả lời khôn ngoan nhất.
Nỗ lực tuyệt vọng đó khiến hoàng đế cau mày.
Sau một hồi im lặng ngắn ngủi, tôi thấy ông gật đầu.
“Xui rủi là thứ chúng ta không thể phòng tránh.”
“Quả đúng như vậy,” Franz nói thêm.
“Cái—cái gì cơ?!”
Kris há hốc.
Tôi cũng ngạc nhiên y như cô nàng.
Hoàng đế thì còn có thể hiểu, nhưng Franz mà chấp nhận câu trả lời này thì… nghe lạ lắm.
“Bệ Hạ rộng lượng tha thứ cho sai lầm của cậu,” Franz nói rành rọt.
“Bình thường thì chuyện này không tưởng.”
“Quá sức không tưởng,” tôi đồng tình.
“Im lặng và nghe đi.”
Tôi thấy điềm gở.
Không thể nào họ dễ dãi thế được.
Dù rắc rối là do sơ suất, dù mọi chuyện đã được giải quyết êm đẹp (mà thực ra chẳng hề), tôi không tin họ sẽ để tôi vô sự.
Tôi không mù mờ đến mức không nhận ra lỗi của mình.
Chắc chắn phải có mặt trái.
Chuyện này tốt đến mức… bất thường.
“An ninh hội nghị vô cùng nghiêm ngặt,” Franz nói tiếp.
“Ngay cả một cuộc tấn công của Chỉ Thuỷ cũng chẳng thành vấn đề. Tuy nhiên, chúng ta là khách của quốc gia này, và không muốn gây rắc rối. Cậu hiểu chứ, Krai Andrey?”
“Hmm. Ờ, đúng rồi. Tôi nghĩ họ sẽ không đến gây sự với các người đâu.”
Dù thấy bất an, tôi cũng chẳng có lựa chọn nào khác.
Tôi đặt hai Bảo Cụ lên bàn, được gửi qua tính năng đính kèm của Điện thoại Thông minh.
Một viên ngọc đen tuyền và chiếc vòng tay mà Telm từng đeo.
Franz chết lặng còn Kris thì sững sờ.
“Đây là Bảo Cụ mà Telm và Kechachakka đã dùng. Không có chúng, sức mạnh của họ giảm đi một nửa.”
“C… Cái gì?! Chúng… ở đâu, bằng cách nào, khi nào cậu làm chuyện này?!”
Franz bối rối, nhưng tôi thì không thể nói rằng mình nhận chúng từ một Huyễn Ảnh.
Tôi chẳng rõ chi tiết, nhưng có vẻ họ đã phải trả giá sau khi thua trong trận chiến trí tuệ.
“Đó là bí mật thương nghiệp,” tôi đáp.
“Vòng tay thì tôi sẽ giao cho Lucia, nhưng viên ngọc thì tôi có thể nhường lại. Có vẻ nó có khả năng triệu hồi rồng—”
“CÁI GÌ?!”
Tôi đâu cần thứ nguy hiểm như vậy.
Có lẽ nếu họ yêu cầu cả vòng tay, tôi cũng đưa luôn cho xong.
Căn phòng rơi vào im lặng.
Ánh mắt bàng hoàng của Kris khiến tôi cảm thấy tội lỗi, nhưng tôi vẫn không thể giải thích nguồn gốc những Bảo Cụ đó.
Ánh nhìn hoàng đế sắc lại.
Sau một thoáng do dự, ông nói:
“Thiên Biến Vạn Hoá, sau khi chứng kiến năng lực của cậu, ta muốn cậu bảo vệ và hướng dẫn Murina.”
Chuyện đó chẳng ăn nhập gì cả.
Như thể câu nói bị lạc khỏi cuộc trò chuyện.
“Ngài nói gì cơ?”
Cuối cùng tôi lên tiếng.
Tôi nhìn sang công chúa đế quốc, và cô ấy vội trốn sau lưng hoàng đế.
Nếu cô ấy cần bảo vệ thì đã có cận vệ hoàng gia.
Thực tế, Franz mới là người đang bảo vệ cô khỏi Chỉ Thuỷ.
Và còn cái chuyện nãy giờ họ nhấn mạnh an ninh hội nghị tuyệt đối và không muốn gây rối?
Vậy chẳng phải cô ấy sẽ tham dự hội nghị sao?
Tôi không quan tâm chính trị, nhưng thỉnh thoảng vẫn nghe nhắc đến hoàng đế, còn công chúa đế quốc thì chẳng ai nói tới.
Cô ấy không nổi tiếng vì chiến công lẫy lừng hay nhan sắc tuyệt trần.
Nghe có vẻ thô, nhưng đúng là rất dễ bị… quên mất.
Tôi còn chẳng biết tên cô ấy cho tới gần đây.
Khoan đã…
Ngay khi ý nghĩ đó vụt qua đầu, Kris lên tiếng:
“Giờ nhắc mới nhớ, ta muốn hỏi tại sao ngươi lại đưa công chúa theo ngay từ đầu. Chẳng phải cô ấy sẽ an toàn hơn khi ở Hoàng Thành sao, thưa ngài?”
Chính xác luôn.
Tôi không nghĩ công chúa liên quan đến chính sự, cũng chẳng có khả năng thừa kế ngai vàng.
Không có lý do gì để hoàng đế đưa cô theo cả.
Nghe câu hỏi của Kris, vẻ mặt Franz thay đổi.
Không phải tức giận… mà như thể có một bóng tối phủ xuống.
Trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, vẻ do dự phá vỡ dáng vẻ uy nghi thường ngày của hoàng đế.
Tôi có cảm giác như mình đang nhìn một quả bom chỉ còn vài giây nữa là phát nổ.
Rồi, với giọng thì thầm như đang tiết lộ bí mật quốc gia, hoàng đế nói:
“Thiên Biến Vạn Hoá, tuyệt đối không được nói với bất kỳ ai chuyện này. Sự thật là… Murina cực kỳ đen đủi.”
